Tiềm năng và vị thế quốc tế của Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Vân Nguyễn“Điểm sáng” nâng tầm vị thế
Phát biểu khai mạc Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021), cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thực tiễn cho thấy, Việt Nam chưa bao giờ có vị thế tốt như bây giờ.
Về kinh tế, từ một quốc gia nông nghiệp lạc hậu với quy mô kinh tế nhỏ, tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm nội địa (GDP) chỉ đạt 26,3 tỷ USD, Việt Nam đã chuyển mình trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Tính đến năm 2023, quy mô của nền kinh tế Việt Nam tăng gấp 58 lần so với những năm đầu đổi mới với GDP đạt 430 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt gần 4.300 USD, trong khi tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm chỉ còn 2,9%.
Với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt gần 25 tỷ USD vào năm 2023 và tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt gần 800 tỷ USD trong năm 2024 (tăng 15% so với năm 2023, vượt 2,5 lần kế hoạch được giao), Việt Nam đã thực sự trở thành một nền kinh tế có mức độ hội nhập toàn cầu cao, góp mặt trong top 30 nền kinh tế xuất khẩu hàng hóa lớn nhất thế giới.
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam ký kết với nhiều quốc gia và khu vực, nhất là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), đã mở ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn, góp phần tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Về chính trị - đối ngoại, Việt Nam tự hào có những bước tiến vượt bậc trong công cuộc mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ đối ngoại với bạn bè khắp năm châu.
Từ việc gia nhập Liên hợp quốc (năm 1977), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, năm 1995) đến Tổ chức Thương mại thế giới (WTO, năm 2007)..., mỗi dấu ấn đều thể hiện sự trưởng thành trong tư duy đối ngoại và năng lực hội nhập quốc tế của đất nước.
Đặc biệt, việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và cân bằng quan hệ với các cường quốc, như Mỹ, Trung Quốc, Nga và Liên minh châu Âu (EU), đã góp phần nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việt Nam không chỉ là thành viên của nhiều cơ chế quan trọng, mà còn đảm nhiệm nhiều vị trí, như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009, 2020 - 2021); thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016, 2023 - 2025); Chủ tịch ASEAN năm 1998, 2010, 2020..., qua đó thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc duy trì hòa bình và an ninh toàn cầu.
Việt Nam tích cực đóng góp vào các sáng kiến toàn cầu về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã chủ động tham gia những nỗ lực quốc tế nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách và chương trình hành động để bảo vệ môi trường, phát triển năng lượng tái tạo và nâng cao nhận thức cộng đồng về biến đổi khí hậu. Năm 2023 đánh dấu cột mốc quan trọng trong lĩnh vực lâm nghiệp của Việt Nam, khi lần đầu tiên Việt Nam bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (tương đương 10,3 triệu tấn CO2) thông qua Ngân hàng Thế giới (WB).
Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia tích cực các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Năm 2014, đánh dấu cột mốc quan trọng khi hai sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam lần đầu tiên được triển khai đến Nam Sudan. Đây là bước đi đầu tiên nhưng đầy ý nghĩa, thể hiện cam kết của Việt Nam đối với hòa bình và an ninh quốc tế.
Đến nay, hơn 800 lượt sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp Việt Nam đã tham gia các phái bộ gìn giữ hòa bình không chỉ ở Nam Sudan, mà còn ở Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei (khu vực tranh chấp nằm giữa Sudan và Nam Sudan) và ngay cả tại trụ sở Liên hợp quốc.
Việt Nam tích cực tham gia các sáng kiến quan trọng để giải quyết các thách thức toàn cầu, như Sáng kiến tài chính đa dạng sinh học (BIOFIN), Sáng kiến Mạng lưới đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái (BES-Net); các sáng kiến hòa bình nhằm thúc đẩy đối thoại và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; đóng góp tài chính cho Quỹ Hỗ trợ Khẩn cấp Trung ương (CERF)...
Sự tham gia của Việt Nam trong các cuộc đàm phán về an ninh khu vực và bảo vệ hòa bình toàn cầu không chỉ nâng cao uy tín quốc tế, mà còn thể hiện cam kết của đất nước đối với hòa bình và sự ổn định thế giới.
Từ năm 2008, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp và phấn đấu trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam luôn ở mức cao, cùng với sự gia tăng đáng kể trong xuất khẩu và thu hút FDI. |
Một Việt Nam tự tin trên vũ đài thế giới
Trong bối cảnh thế giới không ngừng biến động, Việt Nam đang sở hữu những động lực quan trọng, là bệ phóng vững chắc để đối mặt với những thách thức trong kỷ nguyên mới.
Trên cơ sở thành tựu đạt được, Đảng và Nhà nước ta không ngừng cải thiện chính sách, đề ra nhiều sáng kiến mới để tăng cường phát triển kinh tế bền vững, thu hút FDI, tạo dựng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”.
Về tổng thể, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định 3 đột phá chiến lược, thúc đẩy phát triển tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, tới văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,... nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia một cách toàn diện.
Việc thực hiện thành công 3 đột phá chiến lược được kỳ vọng sẽ trở thành động lực mạnh mẽ giúp Việt Nam đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh thế giới.
Về kinh tế, Đảng ta xác định: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao... Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
Để hiện thực hiện hóa mục tiêu đó, ngày 27-12-2024, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Công điện số 140/CĐ-TTg, về việc phấn đấu tăng trưởng kinh tế hai con số năm 2025, tạo tiền đề cho việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2030, hướng tới hiện thực hóa khát vọng vươn lên mạnh mẽ của dân tộc trong kỷ nguyên mới như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Để vươn tới mục tiêu thu nhập trung bình cao cho người dân vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045 thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phải đạt hai con số liên tục trong những năm tiếp theo”[1].
Về chính trị - ngoại giao, Việt Nam kiên trì triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được trên cơ sở đẩy mạnh tham gia các cơ chế quốc tế, đóng góp tích cực vào giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình trong khu vực và trên thế giới; qua đó, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, con đường phát triển của Việt Nam không thể tách rời với thế giới và khu vực. Việt Nam không thể thực hiện các mục tiêu nói trên nếu thiếu sự đoàn kết quốc tế trong sáng, sự ủng hộ quý báu và hợp tác hiệu quả của cộng đồng quốc tế[2].
Tiềm năng vươn mình trong kỷ nguyên mới
Tổng Bí thư Tô Lâm nhận định: “Trí thức là lực lượng đại diện cho trí tuệ, tài năng của nhân dân và dân tộc, là một trong những nguồn lực và động lực quan trọng nhất mang lại sự đột phá và sự phồn vinh cho đất nước”[3].
Với lợi thế về dân số trẻ, nguồn nhân lực dồi dào và khả năng học hỏi nhanh chóng, Việt Nam đang sở hữu những cơ hội vô giá để tiếp tục ghi dấu ấn trên trường quốc tế, trở thành một nhân tố quyết định trong các vấn đề khu vực và thế giới.
Bối cảnh đặc biệt của thế giới và trong nước vừa tạo cho công cuộc đổi mới của Việt Nam những triển vọng mới đầy hứa hẹn, vừa đặt ra những nhiệm vụ mới hết sức to lớn và nặng nề.
Thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau và cùng tác động tới chiều hướng phát triển đất nước. Vấn đề là phải chủ động nắm bắt thời cơ, tích cực tham gia quá trình hợp tác, phân công lao động quốc tế, phát huy lợi thế có sẵn và tìm lợi thế so sánh để vươn lên, phát triển nhanh và vững chắc, tận dụng thế và lực đã có, tạo ra thế và lực mới; đồng thời luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả nguy cơ mới nảy sinh, bảo đảm cho sự phát triển ổn định và đúng hướng.
Đồng thời, để có thể khai thác triệt để tiềm năng của dân tộc và đưa đất nước bước lên tầm cao mới, sự đồng lòng và quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đóng vai trò hết sức quan trọng.
Điều này đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng trong công cuộc đổi mới tư duy, cải cách thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Mỗi người dân Việt Nam, từ mọi tầng lớp xã hội, mọi ngành, nghề, cần phát huy vai trò hơn nữa trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành hiệu quả của Chính phủ, cùng tinh thần đoàn kết, sự sáng tạo của toàn dân tộc, trên nền tảng vững chắc được xây dựng từ những thành tựu đã đạt được, Việt Nam có tiềm năng rất lớn để bứt phá trong thời gian tới, tiếp tục đạt được sự tăng trưởng vượt bậc, nâng cao vị thế trên trường quốc tế vào thời điểm đặc biệt nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước./.
[1] “Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18 và một số nội dung quan trọng”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 1-12-2024.
[2] “Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu về chính sách đối ngoại tại Trường Đại học Quốc gia Malaya”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 21-11-2024.
[3] “Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi gặp mặt trí thức, nhà khoa học”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 30-12-2024.