16/10/2024 | 02:39 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Văn hóa chính trị


Sự ủng hộ của công chúng đang giúp các đảng trung hữu và cực hữu trở thành thành phần quan trọng, thậm chí chi phối dòng chảy chính trị một số nước châu Âu; hàng trăm cuộc đảo chính xảy ra tại châu Phi trong hơn nửa thế kỷ qua và nguy cơ chính biến vẫn đe dọa sự ổn định của nhiều quốc gia ở châu lục này; sự “lên ngôi” của tin giả, thông tin sai lệch có xu hướng gia tăng trước nhiều cuộc bầu cử quan trọng; các hoạt động phản đối chính phủ đang lan rộng tại không ít quốc gia từ Âu sang Á; làn sóng chủ nghĩa dân túy đang có xu hướng chiếm ưu thế ở một số nước...

Những diễn biến trên có thể coi là những “lát cắt” cho thấy phần nào “bản sắc” và sự biến đổi không ngừng về văn hóa chính trị ở từng quốc gia, thậm chí là trên phạm vi khu vực cũng như những tác động tiêu cực của chúng trong thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, bên cạnh những xu hướng đó, việc nhận thức, duy trì và phát huy những giá trị văn hóa chính trị đúng đắn cũng trở thành cơ sở nâng cao khả năng quản trị, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhiều quốc gia ứng phó hiệu quả với các cú sốc cũng như khó khăn, thách thức, góp phần thúc đẩy thế giới phát triển nhanh và bền vững.

I. MỘT SỐ NHẬN THỨC CHUNG VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

Văn hóa chính trị là gì?

Văn hóa

Thuật ngữ “văn hóa” được rất nhiều nhà nghiên cứu từ thời cổ đại đến ngày nay nghiên cứu, tìm tòi, phân tích để làm rõ nội hàm ý nghĩa của nó. Đã có hàng trăm định nghĩa (khái niệm) về văn hóa dựa trên các cách tiếp cận khác nhau.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đưa ra nhiều định nghĩa về văn hóa. Trong đó, định nghĩa mới nhất đưa ra vào năm 2002 nêu rõ: “văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.

Chính trị

Cũng giống như văn hóa, “chính trị” là thuật ngữ rộng và phức tạp. Trong thời gian đầu, chính trị thường được dùng để chỉ những công việc liên quan đến nhà nước, là nghệ thuật để cai trị, là phương pháp để thực hiện các mục tiêu của quốc gia.

Theo cách định nghĩa của nhiều trường phái khoa học chính trị phương Tây, chính trị là tất cả các hoạt động của con người nhằm xác lập những chế định bắt buộc chung đối với nhóm hoặc giữa các nhóm người. Từng là công cụ đặc quyền để tầng lớp thống trị buộc các tầng lớp khác phải phục tùng ý chí của mình, nhưng cùng với quá trình dân chủ hóa, chính trị dần trở thành công việc của đông đảo quần chúng nhân dân. Mọi công dân đều có quyền tham gia vào công việc của nhà nước ở những mức độ, phạm vi khác nhau. Về bản chất, chính trị phản ánh một trình độ văn hóa của nhân loại nói chung và của từng cộng đồng người nói riêng về phương diện tổ chức, điều hành xã hội.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chính trị được hiểu là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động nhà nước... Chính trị còn là sự biểu hiện tập trung của nền văn minh, của hoạt động sáng tạo, của sự giải phóng...

Văn hóa chính trị

Từ những định nghĩa kể trên, có thể thấy rõ sự liên quan giữa “văn hóa” và “chính trị”. Trên thực tế, ý niệm về văn hóa chính trị đã xuất hiện manh nha từ thời cổ đại. Ở phương Đông, các nhà tư tưởng cổ đại Trung Quốc sớm đưa ra các hệ tư tưởng về đức trị, pháp trị... Từ khoảng những năm 100 Trước công nguyên, Khổng giáo đã trở thành hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn, là công cụ tinh thần để bảo vệ cho chế độ quân chủ ở Trung Quốc trong hàng nghìn năm.

Trong khi đó, nhà triết học cổ đại Hy Lạp Platon quan niệm rằng, chính trị là nghệ thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ. Từ đó cho đến đầu thế kỷ XX, rất nhiều nhà tư tưởng, triết học đã có những nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa văn hóa và chính trị. Tuy nhiên, chỉ đến giữa thế kỷ XX, 2 nhà khoa học người Mỹ là Gabriel A. Almond và Sidney Verba mới nêu ra thuật ngữ “văn hóa chính trị” (political culture). Hai tác giả này cho rằng, “văn hóa chính trị của một quốc gia là cách người dân chia sẻ các hình thức định hướng lợi ích đối với các đối tượng chính trị”.

Năm 1961, tại Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế, nhà chính trị học nổi tiếng khác của Mỹ là L. Pye đưa ra định nghĩa rõ hơn về văn hóa chính trị. Theo ông, văn hóa chính trị là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý nghĩa và trật tự cho quá trình chính trị; nó đưa ra tiền đề cơ bản và quy tắc chế ước hành vi của hệ thống chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận hành của một chính thể...

Hiện nay, văn hóa chính trị có thể được hiểu là văn hóa được thể hiện trong hoạt động chính trị của con người, tổ chức, thể chế, thiết chế chính trị. Văn hóa chính trị là tập hợp các giá trị, thái độ, niềm tin, biểu tượng được cộng đồng chia sẻ và nó có thể chi phối, định hướng hoạt động của cá nhân và tổ chức khi các chủ thể này tham gia vào đời sống chính trị.

Cấu trúc của văn hóa chính trị

Theo nhiều nghiên cứu, văn hóa chính trị có một cấu trúc phức tạp, được tạo thành từ rất nhiều yếu tố như tri thức và sự hiểu biết về chính trị; tình cảm, niềm tin, lý tưởng chính trị; hệ tư tưởng, đường lối, chính sách của giai cấp cầm quyền; truyền thống chính trị, các giá trị văn hóa được thiết lập trong lịch sử và được vận dụng vào hoạt động chính trị; những chuẩn mực, phương thức tổ chức và hoạt động của quyền lực chính trị; hành vi của chủ thể chính trị...

Tri thức chính trị

Tri thức chính trị là một bộ phận của tri thức nói chung và được coi là hạt nhân của văn hóa chính trị. Tri thức chính trị giống với các hình thức tri thức khác ở chỗ đều là sự hiểu biết của con người, được tích lũy và phát triển trong tiến trình lịch sử. Tuy nhiên, khác với các loại hình tri thức khác, tri thức chính trị là tri thức có tính đặc thù chính trị, là cơ sở để nhận thức và lựa chọn các mục tiêu chính trị cũng như các cách thức và con đường đi đến mục tiêu. Đối với người nắm quyền lực chính trị (cá nhân, tổ chức hoặc đảng phái, hệ thống chính trị), tri thức chính trị chính là sự hiểu biết có hệ thống và sâu sắc các quy luật của xã hội, nắm vững và vận dụng đúng những nguyên lý, quy luật phát triển của lịch sử - xã hội,... và đủ khả năng tìm được những câu trả lời đúng trước những biến động phức tạp của đời sống xã hội.

Trong tri thức chính trị, tư tưởng chính trị (hay hệ tư tưởng chính trị) có vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là hệ thống các quan điểm chính trị được trình bày có hệ thống, logic, là tiền đề tạo thành các mục tiêu, đường lối, chiến lược, sách lược chính trị của một chủ thể. Tư tưởng chính trị đúng sẽ đưa tới những hành động chính trị đúng đắn. Trên thực tế, văn hóa chính trị phản ánh quan điểm, tư tưởng chính trị của những người hoạt động chính trị. Hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.

Các giá trị, chuẩn mực chính trị

Giá trị chính trị là những điều được tin là đúng đắn, có ý nghĩa, được cộng đồng thừa nhận và chia sẻ một cách rộng rãi trong nền chính trị và các hoạt động chính trị. Dù quan niệm về các giá trị chính trị có sự khác biệt giữa các quốc gia, nền chính trị khác nhau, nhưng đa phần các quốc gia đều thừa nhận những giá trị chung như tự do, bình đẳng, công bằng, khoan dung, dân chủ...

Những giá trị chính trị mang tính phổ quát này không chỉ thấm nhuần vào nền chính trị, mà thực chất còn trở thành chuẩn mực - hệ thống các quy định cụ thể về phương thức hành xử trong thực tiễn hoạt động chính trị, tác động và điều chỉnh các chủ thể chính trị trong quá trình giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị...

Văn hóa chính trị

Văn hóa chính trị bao gồm các quy tắc chính thức cũng như phong tục và truyền thống, được truyền lại qua nhiều thế hệ. Đây cũng là một trong những con đường quan trọng hình thành nên các tri thức, hệ giá trị và chuẩn mực chính trị...

Niềm tin, thái độ và hành vi chính trị

Văn hóa chính trị của mỗi quốc gia đều xuất phát từ văn hóa chính trị của mỗi cá nhân, phụ thuộc rất lớn vào niềm tin, thái độ, hành vi chính trị của cá nhân. Trong đó, niềm tin chính trị là yếu tố giúp con người vững vàng trong mọi tình huống thuận lợi hay khó khăn. Đây cũng là yếu tố cốt lõi quan trọng chi phối thái độ chính trị của mỗi cá nhân trong đời sống chính trị; thể hiện qua những hành động chính trị cụ thể cũng như xây dựng năng lực hành động chính trị - một hình thức năng lực đặc biệt trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị, được phát triển trong thực tiễn hoạt động chính trị.

 II. NHỮNG BIỂU HIỆN VÀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

Ba biểu hiện chủ yếu của văn hóa chính trị

Văn hóa bầu cử

Hình thức này biểu hiện việc giành, giữ địa vị cầm quyền, bảo đảm quyền lực của các lực lượng chính trị trong xã hội phải mang tính cạnh tranh và tuân theo pháp luật. Quyền lực này phải được người dân ủy nhiệm qua các cuộc bầu cử; quyền lực được ủy nhiệm sẽ trở thành “thẩm quyền” - quyền lực chính đáng. Văn hóa chính trị đúng đắn phải tôn trọng sự ủy quyền đó, tức tôn trọng tiến trình và kết quả của các cuộc bầu cử. Tất nhiên, khi xem xét khía cạnh này, người ta cũng đặc biệt quan tâm tới sự quan tâm, hưởng ứng của người dân trong tiến trình bầu cử.

Văn hóa cầm quyền

Khi nói tới văn hóa cầm quyền là nói tới sự lãnh đạo, quản lý của cá nhân các nhà chính trị, đội ngũ công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước.

Văn hóa lãnh đạo được hiểu là cách thức lãnh đạo không sử dụng tới công cụ quyền lực, mang tính định hướng, thuyết phục, gắn với việc sử dụng quyền lực “mềm”. Trong khi đó, văn hóa quản lý là các hoạt động sử dụng tới công cụ quyền lực, mang tính ép buộc, tức các hoạt động gắn với việc sử dụng “quyền lực cứng” nhằm chỉ đạo, điều hành, hỗ trợ việc thực hiện các đường lối, chiến lược, chính sách. Văn hóa lãnh đạo và văn hóa quản lý là các hoạt động gắn kết với nhau của cá nhân các nhà cầm quyền. Chúng được sử dụng tùy theo chức năng và nhiệm vụ cụ thể.

Dựa trên những biểu hiện này, các nhà khoa học đã nghiên cứu, đưa ra nhiều chỉ số nhằm đo lường mức độ phát triển (hay hạn chế) về văn hóa chính trị của mỗi quốc gia như: sự hưởng ứng của công dân đối với các cuộc bầu cử; mức độ tự hào của người dân đối với đất nước mình; sự tin tưởng và bảo đảm công bằng của các cơ quan công quyền; sự khoan dung với ý kiến khác biệt; sự tự tin vào năng lực bản thân khi tham gia vào đời sống chính trị, xã hội; sự hợp tác và tin cậy trong xã hội; lòng tin vào các ngành nghề trong xã hội và các lĩnh vực trong hệ thống chính trị...

Văn hóa giám sát, phản biện

Văn hóa chính trị còn biểu hiện qua việc tham dự (giám sát, phản biện) của nhân dân, các tổ chức xã hội đối với tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị cũng như các cá nhân trong hệ thống chính trị trên cơ sở pháp luật.

Một số vai trò của văn hóa chính trị

Nhận thức

Như đã đề cập, tư tưởng (hệ tư tưởng) là yếu tố không thể thiếu và là bộ phận quan trọng nhất của văn hóa chính trị. Trên thực tế, các cá nhân, giai cấp trong xã hội thường nhận thức các vấn đề chính trị theo những lập trường, quan điểm, tư tưởng chính trị chủ đạo. Chức năng này được thể hiện trong môi trường chính trị, trong mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân với cộng đồng tạo nên một nền văn hóa chung. Qua hành vi của cá nhân và của cả cộng đồng, văn hóa chính trị lại tiếp thu những nhân tố mới và tiếp tục định hướng nhận thức cho hành vi của cá nhân hay của cộng đồng.

Định hướng

Văn hóa chính trị có khả năng định hướng, điều chỉnh các hành vi của con người và các quan hệ xã hội. Trước hết, đó là các định hướng về nhận thức, hiểu biết hệ thống chính trị, những người trong bộ máy cầm quyền; định hướng về niềm tin, sự tin tưởng về luật lệ trong hoạt động chính trị; định hướng về hoạt động chính trị của chủ thể như thái độ, ý thức, cách thức hoạt động chính trị...

Trên cơ sở nhận thức chính trị đúng đắn về mục tiêu lý tưởng, giai cấp cầm quyền và các nhà lãnh đạo chính trị có thể xây dựng được đường lối chính trị, hình thành các tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn theo mục tiêu chính trị đặt ra. Cùng với trình độ chính trị xác định, con người chính trị có thể chủ động thực hiện các hành động theo những lý tưởng đã được chọn, phù hợp với những chuẩn mực chính trị của xã hội. Đặc biệt, trên nền tảng văn hóa chính trị cao, giai cấp cầm quyền có khả năng phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực, hướng hoạt động xã hội theo những mục tiêu đã xác định.

Tổ chức và quản lý xã hội

Vai trò này thể hiện rõ nhất qua việc định hướng lựa chọn, xây dựng mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Trong lịch sử phát triển của loài người, ngoại trừ xã hội cộng sản nguyên thủy, các xã hội đều được tổ chức theo lập trường và lợi ích của giai cấp thống trị. Trong các xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, do bản chất văn hóa chính trị của giai cấp cầm quyền nên xã hội chỉ được tổ chức nhằm phục vụ cho lợi ích của một số ít người nắm giữ tư liệu sản xuất. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, văn hóa chính trị nhằm từng bước được hoàn thiện cùng với nền dân chủ, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, mở ra khả năng giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng mọi nguồn lực cho xã hội phát triển.

Bên cạnh đó, các chuẩn mực, giá trị văn hóa chính trị có vai trò và tác động rất lớn đến việc giám sát quyền lực chính trị cũng như việc hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực chính trị. Theo đó, văn hóa chính trị tác động ở nhiều phương diện đối với việc kiểm soát quyền lực chính trị, từ xây dựng thể chế pháp lý đến việc thực hiện kiểm soát quyền lực chính trị. Thể chế pháp lý được biểu hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền lực chính trị và kiểm soát việc thực hiện quyền lực chính trị. Đây chính là các chuẩn mực văn hóa chính trị, làm cơ sở, căn cứ để xây dựng, định hướng và xử lý việc kiểm soát quyền lực chính trị.

Thúc đẩy sự tham gia của người dân

Trong xã hội có văn hóa chính trị cao, mỗi cá nhân sẽ ý thức đầy đủ về vị trí, vai trò cũng như nghĩa vụ của mình trong các hoạt động chính trị - xã hội; mặt khác, xã hội cũng tạo ra cơ chế phù hợp để mỗi công dân có thể tham gia một cách tích cực, tự giác vào công việc của nhà nước và xã hội. Đây là nguồn gốc thúc đẩy những hoạt động sáng tạo tích cực đối với các hoạt động chính trị - xã hội của mỗi cá nhân, tổ chức, tạo nền tảng thúc đẩy sự phát triển của xã hội; cổ vũ, động viên các chủ thể chính trị tham gia tích cực vào các hoạt động đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

 III. “BẢN SẮC” VĂN HÓA CHÍNH   TRỊ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA

Văn hóa chính trị Mỹ

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, “bản sắc” văn hóa chính trị Mỹ bao gồm một hệ thống niềm tin và giá trị đa dạng như tự do, bình đẳng, dân chủ, chủ nghĩa cá nhân, pháp quyền, chủ nghĩa dân tộc và “Giấc mơ Mỹ”... Theo đó, hầu hết người dân Mỹ đều tin vào quyền được tự do, miễn là quyền của người khác không bị lạm dụng. Mọi người cũng sẽ có sự “bình đẳng về cơ hội” (không phải bình đẳng tuyệt đối). Về giá trị dân chủ, các quan chức được bầu phải chịu trách nhiệm trước nhân dân; công dân có trách nhiệm lựa chọn một cách sáng suốt thông qua bầu cử.

Với chủ nghĩa cá nhân, người Mỹ tin rằng quyền của cá nhân được coi trọng hơn quyền của nhà nước (chính phủ); sáng kiến và trách nhiệm cá nhân được khuyến khích mạnh mẽ. Trong khi đó, việc hình thành và hoạt động của Chính phủ Mỹ dựa trên Hiến pháp và luật được áp dụng một cách bình đẳng và công bằng, chứ không phải theo ý muốn chủ quan, tùy tiện của người cai trị. Hiến pháp là nền tảng của nhà nước pháp quyền, bởi vậy công chúng có mức độ tôn trọng cao đối với hệ thống chính quyền Mỹ và cấu trúc của các thể chế chính trị của nước này. Bên cạnh đó, bất chấp một số thái độ tiêu cực hiện nay đối với chính phủ, hầu hết người Mỹ đều tự hào về quá khứ của mình và có xu hướng không nhấn mạnh đến các vấn đề, chẳng hạn như sự không khoan dung hoặc thất bại quân sự. Giá trị này bao gồm niềm tin rằng nước Mỹ mạnh mẽ và có đạo đức hơn các quốc gia khác...

Văn hóa chính trị của một quốc gia một phần được xác định bởi những anh hùng của quốc gia đó. Tại Mỹ, trước thế kỷ XX, các nhân vật chính trị, các nhà lãnh đạo yêu nước là những anh hùng nổi bật. Ngày nay, các anh hùng Mỹ có nhiều khả năng xuất thân từ các nhân vật giải trí, thể thao và kinh doanh nổi tiếng hơn là từ giới chính trị. Chẳng hạn như vào những năm 90 của thế kỷ XX, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp như Bill Gates của Microsoft và Jack Welch của General Electric, được một số người Mỹ coi là anh hùng khi phấn đấu đạt được thành công trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, còn có những vận động viên thể thao nổi bật như tay đua xe đạp Lance Armstrong hay cầu thủ bóng rổ NBA Michael Jordan...

Đặc biệt, khi đề cập đến văn hóa chính trị Mỹ, phần lớn các học giả đều đề cập đến “Giấc mơ Mỹ” - niềm tin rằng mỗi người Mỹ đều có quyền tự do theo đuổi một cuộc sống tốt đẹp hơn. “Giấc mơ” này cũng đã thúc đẩy sự ra đời của những câu chuyện độc đáo, chẳng hạn như các tổng thống khởi nghiệp từ những căn nhà gỗ hay những doanh nhân rất thành công đến Mỹ với tư cách là những người nhập cư không xu dính túi...

Theo nhiều nghiên cứu, các sự kiện quan trọng như Nội chiến, Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai, Đại suy thoái, Chiến tranh Việt Nam, phong trào dân quyền và vụ tấn công khủng bố ngày 11-9,... đã ảnh hưởng lớn đến thế giới quan chính trị của người dân Mỹ, đặc biệt là giới trẻ. Chẳng hạn như sự kiện 11-9 đã khơi dậy giá trị yêu nước của người Mỹ, dẫn đến nhiều hoạt động thể hiện công khai ủng hộ đất nước, hình thức chính phủ dân chủ và các nhân vật có thẩm quyền trong các công việc dịch vụ công như cảnh sát và lính cứu hỏa. Báo chí nước này cũng soi xét kỹ lưỡng các chính trị gia về những hành động được cho là thiếu lòng yêu nước và quan niệm rằng một nhà lãnh đạo chính trị không yêu nước có thể gây ra tranh cãi. Như trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, giới truyền thông đã “phát cuồng” vì “vấn đề lòng yêu nước” của ứng cử viên tổng thống Đảng Dân chủ Barack Obama, khi đã không đặt tay lên ngực (trái tim) khi cử hành quốc ca tại một sự kiện ở Iowa.

Văn hóa chính trị “phân lớp” của Canada

Văn hóa chính trị của Canada thường được mô tả một cách hình tượng là “phân lớp”, mặc dù các lớp này không dễ dàng phân định. Trong đó, lớp đầu tiên bao gồm niềm tin của người Canada vào hệ thống chính quyền nghị viện và dân chủ. Điều này bao gồm niềm tin rằng đa số thống trị trong quá trình ra quyết định chính trị là thỏa đáng. Sự hợp pháp được công nhận đối với các lợi ích cạnh tranh trong xã hội Canada được xác định rõ ràng bởi quan điểm rằng đa số sẽ chiếm ưu thế khi không thể đạt được một giải pháp thỏa hiệp. Ngoài ra, theo nguyên tắc đa số, bất kỳ quyết định chính trị nào cũng có thể được thay đổi một khi đa số đã thay đổi lập trường của mình. Đặc điểm cuối cùng của nền dân chủ nghị viện, chủ quyền nhân dân, được thể hiện ở các cuộc bầu cử thường xuyên và sự tham gia của người dân vào tiến trình chính trị.

Dưới lớp đầu tiên là một nền văn hóa chính trị độc đáo của Canada, ví dụ như người Canada được đánh giá là những cử tri tận tâm nhưng đồng thời họ không tham gia rộng rãi vào tiến trình chính trị. Ngoài ra, một số nghiên cứu chỉ ra rằng, người Canada ủng hộ mạnh mẽ quyền lực chính trị và chấp nhận rộng rãi vai trò lãnh đạo của giới tinh hoa. Không giống như người Mỹ, người Canada thường thích dựa vào sự can thiệp của chính phủ hơn là khu vực tư nhân để giải quyết các vấn đề kinh tế.

Một đặc điểm khác của văn hóa chính trị Canada là mối quan hệ “tiếp cận và tránh né” của Canada với Mỹ. Bất chấp thực tế rằng Mỹ là đối tác thương mại lớn nhất và là quốc gia mà Canada có nhiều lợi ích chung, nhiều người Canada vẫn thất vọng trước việc văn hóa và hoạt động kinh doanh của họ bị lấn át bởi Mỹ. Do vậy, nước này đã cố gắng điều chỉnh mối quan hệ đó bằng cách tạo ra một số tổ chức chính phủ có nhiệm vụ quảng bá văn hóa Canada hoặc hạn chế dòng vốn FDI từ Mỹ vào Canada. Quan điểm này đôi khi đã giúp đoàn kết người dân, đồng thời giúp phát triển nền văn hóa chính trị và đại chúng của Canada.

Lớp văn hóa chính trị thứ ba chứa đựng những thái độ đặc trưng của người Canada nhưng đồng thời lại có sự khác biệt giữa những người nói tiếng Anh và tiếng Pháp, vì 2 cộng đồng này có mô hình phát triển, hệ thống giáo dục, tôn giáo và ngôn ngữ khác nhau. Ngoài ra, mức độ tin tưởng vào các chính trị gia và chính phủ giữa người Canada sống ở các vùng khác nhau cũng có sự khác biệt rõ rệt.

Văn hóa chính trị Thụy Điển

Thụy Điển được đánh giá là một nền dân chủ có hiệu suất cao và có chế độ quân chủ lập hiến. Về mặt chính trị, Thụy Điển thường được đặc trưng bởi văn hóa chính trị đồng thuận, cử tri có những phản ứng tích cực về mặt chính trị và những cam kết của chính phủ đối với phúc lợi phổ quát, tiêu chuẩn bình đẳng. Tuy nhiên, gần đây, một số người cho rằng kỷ nguyên của nhà nước phúc lợi đa văn hóa và khoan dung này đã kết thúc. Việc Thụy Điển nỗ lực gia nhập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để đáp lại cuộc chiến của Nga ở Ukraina cũng báo hiệu một sự thay đổi khỏi lập trường trung lập truyền thống của nước này.

Trong nhiều thập niên, người dân Thụy Điển tin tưởng rằng chính phủ luôn làm việc vì lợi ích tốt nhất của họ. Tuy nhiên, những căng thẳng tồn tại từ cuộc bầu cử năm 2018 đã làm suy giảm niềm tin được xây dựng vững chắc giữa chính phủ và người dân trong nhiều thập niên. Theo đó, văn hóa chính trị và hệ thống đa đảng của Thụy Điển thường buộc các đảng phải thành lập liên minh nếu có ý định giữ đa số trong quốc hội. Năm 2018, kịch bản này đã thành hiện thực - không một đảng nào giành được đa số - khiến Thụy Điển rơi vào tình trạng “quốc hội treo” trong gần 4 tháng, cho tới khi một liên minh không vững chắc giữa Đảng Dân chủ Xã hội, Đảng Trung tâm, Đảng Xanh và Đảng Tự do được hình thành. Điều này cho thấy Thụy Điển đang chuyển đổi sang một hình thức chính trị với sự phân mảnh lớn hơn. Sự phân mảnh đó gây ra những rạn nứt không chỉ trong dân chúng mà còn trong chính chính phủ. Gần 50% số người dân cho biết họ không tin rằng chính phủ bất ổn sẽ tồn tại hết nhiệm kỳ. Sự suy giảm này cũng được xem là một trong những lý do khiến Thụy Điển gặp khó khăn nhiều hơn trong việc ứng phó với đại dịch COVID-19.

 IV. VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

Những giá trị từ truyền thống, lịch sử

Văn hóa chính trị Việt Nam được tích lũy, phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Ý thức độc lập dân tộc, tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết, yêu nước đã trở thành những giá trị bền vững của văn hóa chính trị Việt Nam.

Cùng với đó, lòng tự hào dân tộc, sự sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, việc coi trọng người tài,... đã tạo nên sức sống của văn hóa chính trị. Nhờ khả năng sáng tạo mà bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó có văn hóa chính trị đã được giữ vững và phát triển qua các thời kỳ. Đặc biệt, tính sáng tạo thể hiện rõ nét khi đất nước, dân tộc phải vượt qua những thời điểm khó khăn, có tính chất quyết định vận mệnh của dân tộc.

Ngoài ra, tôn trọng đạo lý, tôn trọng chính nghĩa, nhân ái, khoan dung, vị tha,... cũng là những giá trị, làm cho văn hóa chính trị Việt Nam mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.

Vấn đề được đặc biệt quan tâm

Không chỉ kế thừa những giá trị tốt đẹp đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm dành sự quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng, củng cố văn hóa chính trị. Ngay từ năm 1943, Đảng đã đưa ra Đề cương về văn hóa Việt Nam nhằm thúc đẩy phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc; đồng thời chống lại văn hóa phong kiến bảo thủ, lạc hậu. Văn kiện nêu rõ thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa, trong đó khẳng định: “a, Mặt trận văn hóa là một trong 3 mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. b, Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. c, Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”.

Với việc thực hiện thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng ta đã phá tan chế độ phong kiến, đánh đổ ách đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật, lập nên chính thể Dân chủ Cộng hòa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa chính trị của chính thể Dân chủ Cộng hòa là phải xây dựng tâm lý độc lập, tự lực, tự cường cho dân tộc. Cán bộ, đảng viên phải biết và dám hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. Đảng và Nhà nước phải xây dựng một xã hội mà mọi sự nghiệp gắn với phúc lợi của nhân dân, lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở. Đặc biệt chế độ Dân chủ Cộng hòa phải hàm chứa một nền chính trị dân quyền.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (năm 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu quan điểm văn hóa mà nội dung được hiểu là những khía cạnh tiêu biểu của văn hóa chính trị. Theo Người, phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc dân, để sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Từ cái gốc đó của tâm lý quốc dân, văn hóa phải làm cho ai cũng có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình. Văn hóa còn có sứ mệnh cao cả là làm cho mỗi người hiểu bổn phận, trách nhiệm của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng.

Người cũng khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh/Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no”; “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng (...). Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học được dân chúng. Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân chúng (...). Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ và đảng viên (...)”.

Tại Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW), Đảng đã đề cập đến vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị một cách rõ nét, với mục tiêu cụ thể là “xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình” và “chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.

Theo Người, chính trị phi văn hóa, kém văn hóa biểu hiện ở nhiều hình dạng, mức độ khác nhau, nhưng rõ nhất, tệ hại nhất là thiếu dân chủ, tham ô, lãng phí, quan liêu, tiêu cực, vô trách nhiệm mà gốc rễ sâu xa là chủ nghĩa cá nhân. Cán bộ, đảng viên một khi đã mang nặng một “ba lô” chủ nghĩa cá nhân thì sẽ không còn tính liêm sỉ, mất hết ý thức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân... Bởi vậy, văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói riêng phải lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền. Với mỗi cán bộ, đảng viên, yêu cầu đặt ra là phải “học để làm việc”, “học để làm người”, “học để làm cán bộ”, nhà hoạt động chính trị có vai trò, trách nhiệm hướng dẫn cho người khác, cho nhân dân, vì vậy, sự gương mẫu là đòi hỏi và yêu cầu bắt buộc. Bên cạnh đó, phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; tự biết mình, đánh giá đúng bản thân, biết phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nỗ lực vươn lên... Chỉ có vậy mới “phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”...

Thấu triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, Đảng ta luôn coi trọng và đề cao nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện văn hóa chính trị. Đặc biệt, từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng văn hóa trong chính trị không ngừng được bổ sung, phát triển, hoàn thiện. Đảng cũng đặt trọng tâm vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Nhiều văn kiện của Đảng cũng thể hiện quyết tâm chính trị rất cao trong việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và những hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, công chức.

Văn hóa chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng

Đảng ta khẳng định, để xây dựng nền văn hóa chính trị Việt Nam tiên tiến, hiện đại, cần kế thừa các giá trị văn hóa chính trị truyền thống tốt đẹp được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế thừa các giá trị văn hóa chính trị tinh hoa của các nước trên thế giới, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Bản chất nền chính trị của chúng ta là khoa học, cách mạng, dân chủ và nhân văn. Đó là nền chính trị phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân, hướng tới mục đích “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Điều đó không chỉ phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam mà còn là mục tiêu mà nhân loại tiến bộ toàn thế giới hướng tới.

Trong đường lối xây dựng và phát triển đất nước, Đảng chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc lựa chọn mục tiêu này vừa tôn trọng những quy luật khách quan trong phát triển kinh tế, vừa khắc phục những hạn chế vốn có của nền kinh tế thị trường. Đây là khía cạnh văn hóa của tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng phải gắn liền với việc bảo đảm quyền lợi của đa số nhân dân lao động, với tiến bộ và thực hiện công bằng xã hội.

Bên cạnh đó, Đảng luôn chủ trương xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; đồng thời khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực của nhà nước là thống nhất thuộc về Nhân dân, không phân chia nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội...

Tinh thần dân chủ còn được thể hiện rất rõ ở tư tưởng lấy “dân làm gốc” và “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; hệ thống chính trị của chúng ta được vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”.

Để tăng cường vai trò của Nhà nước và sự nghiêm minh của pháp luật, Nhà nước đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm làm cho mọi người sống và làm việc theo pháp luật. Việc cải cách hành chính, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, khuyến khích sự tham gia rộng rãi của nhân dân trong những vấn đề quan trọng của đất nước,... cũng chính là những bước tiến đáng chú ý của văn hóa chính trị của Việt Nam.

Đảng cũng xác định “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”; thường xuyên tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng trong nhân dân, bảo đảm cho Đảng ta luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng...

 V. TIẾP TỤC CỦNG CỐ, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN MỚI

Những thành tựu quan trọng

Thực tế cho thấy, sau gần 40 năm đổi mới, văn hóa chính trị Việt Nam không ngừng được củng cố, nâng cao, từ đó có những đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Những thắng lợi của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước cho thấy đội ngũ cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển văn hóa chính trị. Với trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị ngày càng cao, toàn diện hơn, đội ngũ lãnh đạo chính trị luôn nêu cao ý thức kỷ luật, tự tu dưỡng, tự rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ được giao; đội ngũ cán bộ công chức năng động, sáng tạo, thích ứng với xu hướng hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hóa. Phần lớn lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị đều bảo đảm các tiêu chuẩn về năng lực, trình độ, uy tín; có tư cách chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.

Bên cạnh đó, trình độ nhận thức về văn hóa chính trị của Đảng và người dân Việt Nam từng bước được nâng cao. Dân chủ trong hệ thống chính trị ngày càng được phát huy. Sự tham gia của người dân vào đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,... của đất nước được thể hiện rõ nét; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo ngày càng tăng cao. Đây là nguồn “năng lượng” quan trọng không chỉ giúp đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, bảo đảm sự ổn định, phát triển mà còn tham gia có hiệu quả vào các vấn đề toàn cầu, được cộng đồng quốc tế công nhận, đánh giá cao...

Tiếp tục xây dựng, củng cố văn hóa chính trị, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới

Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc xây dựng, củng cố văn hóa chính trị là đòi hỏi tất yếu, khách quan, để văn hóa chính trị trở thành sức mạnh nội sinh bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Để làm được điều đó, trước hết cần xây dựng môi trường văn hóa chính trị lành mạnh, sáng tạo, nhân văn, tạo điều kiện cho con người và xã hội phát triển toàn diện, bền vững. Môi trường đó cũng phải thấm đẫm tinh thần dân chủ, kỷ cương, trên cơ sở phát huy các giá trị truyền thống gắn với những giá trị tốt đẹp nhất của nhân loại. Xây dựng hệ giá trị văn hóa trong chính trị với những tiêu chí cơ bản như: đạo đức văn hóa trong ứng xử; trình độ giác ngộ khoa học và văn hóa về chính trị; ý thức, tình cảm và niềm tin chính trị; động cơ, thái độ và hành vi trong hoạt động chính trị,... để mỗi người hướng tới rèn luyện, học tập và tu dưỡng nhằm không ngừng hoàn thiện bản thân.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục nâng cao nhận thức về xây dựng văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho mọi hành động của cách mạng. Chú trọng công tác giáo dục để cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thấm nhuần quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa chính trị nói riêng, nền văn hóa Việt Nam nói chung với các giá trị: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cùng các đặc trưng dân tộc - nhân văn - dân chủ và khoa học; phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, làm cho con người Việt Nam có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, trung thực, cần cù, sáng tạo...

Cùng với đó, coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước và các đoàn thể chính trị, làm cho hệ thống chính trị phải thực sự trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải thực sự tận tụy, trách nhiệm, gương mẫu. Không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc; làm tròn bổn phận là người đầy tớ phục vụ nhân dân; sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, nói đi đôi với làm. Thực hành dân chủ rộng rãi; trọng dân, gần dân, hiểu dân, chú trọng lắng nghe tiếng nói của người dân. Đưa chuẩn mực đạo đức văn hóa trong chính trị trở thành một tiêu chuẩn quan trọng để bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đẩy mạnh việc “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; thực hiện nghiêm các quy định về nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, nhất là với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, những người có tầm ảnh hưởng quan trọng trong cộng đồng và xã hội; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.../.

THÀNH NAM - KHÔI NGUYÊN - TIẾN THẮNG - CÔNG MINH - DUY ANH (thực hiện)

Chuyên mục: Hồ sơ