02/12/2025 | 00:58 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Đột phá chính sách để kiến tạo mô hình phát triển nền kinh tế bạc

PHAN VĂN HÙNG* - PHAN THỤC ANH**
* Phó Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam - ** Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Đột phá chính sách để kiến tạo mô hình phát triển nền kinh tế bạc Y bác sĩ khám, tư vấn chữa bệnh miễn phí cho người cao tuổi ở thành phố Hải Phòng_Ảnh: baohaiphong.vn
Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển nhanh từ cơ cấu dân số vàng sang cơ cấu dân số già, phát triển kinh tế bạc không chỉ là yêu cầu thích ứng mà còn là hướng đi chiến lược để bảo đảm an sinh xã hội, tạo động lực tăng trưởng mới và phát huy giá trị con người trong kỷ nguyên già hóa dân số.

Từ nhận thức chính sách đến hành động thể chế

Quá trình chuyển nhanh sang cơ cấu dân số già không chỉ tạo sức ép lớn lên hệ thống y tế, an sinh, bảo hiểm xã hội và thị trường lao động, mà còn mở ra một không gian phát triển kinh tế mới - kinh tế bạc, hướng tới khai thác tiềm năng của nhóm dân số cao tuổi như một nguồn lực phát triển.

Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định người cao tuổi là bộ phận quan trọng của xã hội, là “kho tàng tri thức và kinh nghiệm quý báu” cần được tôn trọng và phát huy. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu “phát huy trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín của người cao tuổi trong đời sống xã hội”. 

Hiến pháp năm 2013, Luật Người cao tuổi năm 2009 và các chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi.

Đặc biệt, Quyết định số 383/QĐ-TTg, ngày 21-2-2025, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược quốc gia về người cao tuổi đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045” lần đầu tiên đưa cụm từ “kinh tế bạc” vào văn bản hành chính của nhà nước - đánh dấu bước chuyển có ý nghĩa trong tư duy hoạch định chính sách, từ chăm sóc sang chủ động phát triển.

Trên lĩnh vực lao động - việc làm, Luật Việc làm năm 2025 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2026) đã bổ sung các chính sách ưu tiên hỗ trợ người cao tuổi trong tiếp cận việc làm, đào tạo nghề, vay vốn khởi nghiệp; đồng thời khuyến khích họ tham gia các chương trình việc làm công ích, sản xuất - kinh doanh phù hợp với năng lực và kinh nghiệm. 

Đây là bước cụ thể hóa quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, giúp kéo dài thời gian tham gia lao động xã hội, gia tăng thu nhập và phát huy giá trị cống hiến của thế hệ bạc.

Tuy vậy, thực tiễn cho thấy hệ thống dịch vụ, sản phẩm và hạ tầng phục vụ người cao tuổi ở nước ta vẫn còn thiếu và yếu. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, hơn 67% số người cao tuổi Việt Nam sống ở khu vực nông thôn, chủ yếu thuộc nhóm thu nhập thấp; tỷ lệ nghèo ở nhóm này cao gần gấp đôi so với mức trung bình cả nước. 

Nhiều địa phương chưa có cơ sở chăm sóc chuyên biệt; các mô hình dưỡng lão, dịch vụ chăm sóc tại nhà, sản phẩm y tế, du lịch, giáo dục dành cho người cao tuổi còn manh mún, quy mô nhỏ. Cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này chưa đủ mạnh. Không ít người cao tuổi có tri thức, kinh nghiệm và năng lực quản lý, song thiếu cơ hội và chính sách hỗ trợ để tiếp tục đóng góp cho xã hội.

Đột phá chính sách để kiến tạo mô hình nền kinh tế bạc

Để phát triển kinh tế bạc tương xứng với tiềm năng, Việt Nam cần những đột phá về thể chế, chính sách và mô hình phát triển đồng bộ.

Trước hết, đổi mới nhận thức xã hội về người cao tuổi, coi họ không chỉ là đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh, mà là nguồn lực quan trọng và thị trường tiềm năng trong phát triển kinh tế - xã hội. 

Việc đẩy mạnh truyền thông, giáo dục cộng đồng nhằm lan tỏa hình ảnh “người cao tuổi năng động, sáng tạo, sống khỏe - sống vui - sống có ích” sẽ góp phần thay đổi định kiến xã hội. Đồng thời, cần đưa nội dung phát triển kinh tế bạc vào các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, ngành và địa phương.

Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật. Sớm cụ thể hóa khái niệm kinh tế bạc trong Luật Người cao tuổi (sửa đổi) và các văn bản pháp lý có liên quan. Bên cạnh đó, Nhà nước nên ban hành chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực, như dịch vụ dưỡng lão, y tế lão khoa, công nghệ chăm sóc và du lịch cao tuổi. 

Đồng thời, phát triển bảo hiểm chăm sóc dài hạn, mở rộng độ bao phủ bảo hiểm y tế và giảm gánh nặng chi phí khám, chữa bệnh cho người cao tuổi.

Ba là, phát triển hạ tầng và nguồn nhân lực chăm sóc chuyên nghiệp. Đầu tư xây dựng mạng lưới trung tâm dưỡng lão, bệnh viện lão khoa, câu lạc bộ văn hóa - thể thao cho người cao tuổi, đặc biệt tại những địa phương có tỷ lệ già hóa dân số cao. 

Song song, đẩy mạnh đào tạo và chuẩn hóa đội ngũ nhân lực chăm sóc, ban hành mã ngành và chuẩn nghề nghiệp chăm sóc người cao tuổi. Ứng dụng công nghệ số, robot hỗ trợ, y tế từ xa (eHealth) và hệ thống giám sát sức khỏe thông minh cũng là hướng đi tất yếu trong kỷ nguyên chuyển đổi số.

Bốn là, phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ bạc. Khuyến khích doanh nghiệp thiết kế các sản phẩm thực phẩm - dinh dưỡng chuyên biệt, thiết bị sinh hoạt thông minh, ứng dụng chăm sóc sức khỏe, tour du lịch, chương trình học tập và giao lưu văn hóa dành cho người cao tuổi. 

Các mô hình “Câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau” cần được nhân rộng, trở thành thiết chế xã hội gắn kết cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống người cao tuổi.

Năm là, tăng cường tiếng nói của người cao tuổi trong quá trình hoạch định chính sách. Phát huy vai trò của Hội Người cao tuổi Việt Nam và các tổ chức xã hội trong tham mưu, phản biện, giám sát và kiến nghị chính sách; định kỳ tổ chức diễn đàn đối thoại chính sách giữa người cao tuổi, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhằm bảo đảm sự đồng thuận và tính khả thi của chính sách.

Sáu là, thúc đẩy hợp tác quốc tế và cơ chế phối hợp liên ngành. Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia có kinh tế bạc phát triển, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Pháp, đồng thời tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, như y tế, tài chính, khoa học - công nghệ, lao động, văn hóa và du lịch. 

Việc khuyến khích khu vực tư nhân, tổ chức xã hội và cộng đồng cùng tham gia sẽ tạo nên mạng lưới phát triển đa trung tâm, bền vững và nhân văn.

Bảy là, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về người cao tuổi và cơ chế giám sát chính sách hiệu quả. Thống kê, cập nhật thường xuyên dữ liệu về dân số cao tuổi, nhu cầu chăm sóc, việc làm, thu nhập; giao ngành thống kê chủ trì xây dựng báo cáo chuyên đề thường niên về người cao tuổi Việt Nam, làm căn cứ cho việc hoạch định, đánh giá và điều chỉnh chính sách phù hợp thực tiễn./.