02/12/2025 | 00:57 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Để nguồn lực bạc cất cánh

TRẦN THỊ LOAN
Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Công ty Lương thực Hà Nam, Phó Chủ tịch Hội Người cao tuổi tỉnh Ninh Bình
Để nguồn lực bạc cất cánh Người cao tuổi Việt Nam tham gia giữ gìn an ninh trật tự, tham gia các hoạt động ở địa phương, làm kinh tế giỏi_Ảnh minh họa
Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh và người cao tuổi đang nổi lên như một nguồn lực bạc quan trọng đối với nông thôn: tạo sinh kế, truyền tri thức, dẫn dắt sản xuất sạch - tuần hoàn và góp phần giữ vững an ninh lương thực trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đứt gãy chuỗi cung ứng.

Nguồn lực bạc và 3 nút thắt nổi bật

Ở nhiều vùng quê, người cao tuổi vẫn trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia sản xuất, là “tay hòm chìa khóa” của gia đình, của hợp tác xã - tổ hợp tác, góp phần điều tiết mùa vụ, dự trữ lương thực, cân đối cung - cầu tại chỗ trong những thời điểm thiên tai, dịch bệnh. Vai trò ấy càng rõ khi địa phương cần “trụ” những khâu ít được số hóa, đòi hỏi kinh nghiệm thực địa, như giống - vụ - thời tiết - thổ nhưỡng.

Cùng với vốn sống, người cao tuổi còn là “ngân hàng tri thức” của nông thôn: truyền nghề, gìn giữ giống bản địa, thói quen tiết kiệm, biết “liệu cơm gắp mắm”, hạn chế lãng phí tài nguyên - những giá trị cốt lõi của nông nghiệp xanh.

Bước vào thời đại kinh tế số, người cao tuổi không hề đứng “ngoài cuộc”. Nhiều người trở thành “chủ thể đa vai”: cố vấn kỹ thuật - thị trường cho con cháu; hạt nhân gắn kết cộng đồng; thậm chí đồng sáng lập các mô hình nông nghiệp sạch, OCOP (mỗi xã một sản phẩm), du lịch nông thôn. 

Từ kinh nghiệm về chất lượng - uy tín, họ hỗ trợ gia đình chuẩn hóa quy trình, giữ chữ tín với người mua, sử dụng mạng xã hội để tiếp thị, kể câu chuyện sản phẩm. Khi kinh nghiệm “đời ruộng” gặp công nghệ số, hiệu quả sản xuất - tiêu thụ được nâng lên, giá trị văn hóa vẫn được bảo tồn.

Ở bình diện rộng hơn, nguồn lực bạc còn góp phần củng cố an ninh lương thực theo nghĩa rộng: ổn định sinh kế tại chỗ; giảm áp lực di cư; duy trì “vành đai” cung ứng nông sản thiết yếu cho đô thị; hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây - con theo hướng xanh, thích ứng, giá trị gia tăng cao. Đó là “lợi tức kinh nghiệm” mà nhiều công nghệ mới chưa thể thay thế.

Sự tham gia của người cao tuổi vào đời sống kinh tế - xã hội còn chưa tương xứng. Ba nút thắt nổi bật cần sớm tháo gỡ như sau:

Thứ nhất, sức khỏe và chi phí chăm sóc. Tuổi tác kéo theo bệnh mạn tính, chi phí y tế cao; nhiều người muốn tiếp tục làm việc, khởi sự nhỏ nhưng e ngại rủi ro sức khỏe - tài chính. Hệ thống dịch vụ lão khoa, chăm sóc dài hạn, phục hồi chức năng - dinh dưỡng - tâm lý,... ở cơ sở còn mỏng; kết nối giữa y tế cơ sở với bảo hiểm, phúc lợi xã hội chưa thực sự liền mạch.

Thứ hai, định kiến tuổi tác. Quan niệm “nghỉ hưu là nghỉ làm” vẫn phổ biến, làm suy giảm động lực cống hiến. Trong kinh doanh - quản lý - dịch vụ, cơ hội dành cho người cao tuổi còn hạn chế; ở một số nơi, các thủ tục hành chính, tiêu chuẩn tiếp cận quỹ - vốn chưa tính tới đặc thù của nhóm này.

Thứ ba, thể chế - chính sách. Kinh tế bạc chưa được định nghĩa đầy đủ trong hệ thống pháp luật; thiếu các cơ chế ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, bảo hiểm, công nhận kỹ năng - kinh nghiệm. Chương trình đào tạo số, chuyển giao công nghệ, tư vấn quản trị dành riêng cho người cao tuổi chưa có quy mô đủ lớn; mạng lưới kết nối liên thế hệ giữa người cao tuổi - thanh niên - doanh nghiệp trẻ còn tự phát.

Những nút thắt ấy là “điểm nghẽn phát triển”. Nếu được tháo gỡ, Việt Nam sẽ mở thêm một động lực tăng trưởng xanh - bao trùm, vừa tận dụng kinh nghiệm, vừa thúc đẩy đổi mới.

Đột phá chính sách và mô hình: từ ý tưởng tới triển khai trên cánh đồng

Để nguồn lực bạc thực sự cất cánh, cần có những giải pháp đồng bộ, khả thi, sát thực tiễn.

Một là, đổi mới nhận thức - truyền thông xã hội. Lan tỏa hình ảnh “người cao tuổi năng động, sáng tạo, sống khỏe - sống vui - sống có ích”; coi họ không chỉ là nhóm tiêu dùng, mà còn là chủ thể sản xuất - sáng tạo - truyền tri thức. Các phong trào “tuổi cao chí càng cao” nên gắn chỉ tiêu cụ thể với mục tiêu chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, nông thôn mới nâng cao.

Hai là, hoàn thiện khung thể chế kinh tế bạc. Sớm cụ thể hóa khái niệm và phạm vi kinh tế bạc trong Luật Người cao tuổi (sửa đổi) và văn bản liên quan; thiết kế ưu đãi thuế - tín dụng - đất đai cho mô hình do người cao tuổi làm chủ hoặc tham gia nòng cốt (hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ sản xuất xanh, vườn - ao - chuồng tuần hoàn). Nghiên cứu thí điểm “bảo hiểm chăm sóc dài hạn” gắn y tế cơ sở - gia đình - cộng đồng để giảm gánh nặng chi phí, tạo “vùng an toàn” cho người cao tuổi tiếp tục làm việc.

Ba là, xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp - việc làm thân thiện. Phát triển các “vườn ươm liên thế hệ” đặt tại trung tâm dịch vụ nông nghiệp cấp xã, kết nối người cao tuổi với thanh niên - doanh nghiệp trẻ; tổ chức cố vấn theo nhóm (mentor group) về kỹ thuật, chuẩn chất lượng, tiếp thị số, quản trị tài chính hộ gia đình. Quỹ tín dụng vi mô “xanh - bao trùm” cần có sản phẩm phù hợp chu kỳ nông nghiệp, lãi suất - điều kiện vay linh hoạt, ưu tiên mô hình giảm phát thải - tái chế phụ phẩm.

Bốn là, “số hóa có hướng dẫn” cho người cao tuổi. Trên nền tảng các chương trình chuyển đổi số nông nghiệp cần “gói đào tạo” tối thiểu, thiết yếu, như: điện thoại thông minh, chụp ảnh - kể câu chuyện sản phẩm, truy xuất QR, chốt đơn an toàn, phòng tránh lừa đảo trực tuyến. Mỗi hợp tác xã nên có “tổ 3 người”: một cán bộ trẻ phụ trách số - thị trường; một người cao tuổi phụ trách kỹ thuật - chất lượng; một phụ trách điều phối - tài chính. Cách tổ chức “ba chân kiềng” giúp gắn kinh nghiệm vào công nghệ.

Năm là, phát triển cụm mô hình điểm theo chuỗi giá trị. Mỗi huyện lựa chọn 1 - 2 sản phẩm lợi thế (gạo đặc sản, cây ăn quả, dược liệu, thủy sản...) để hình thành “chuỗi”: người cao tuổi giữ vai trò thủ trưởng kỹ thuật - bảo tồn giống; lao động trẻ đảm trách số hóa - logistics; doanh nghiệp làm đầu mối tiêu thụ - xuất khẩu. Bộ tiêu chí “nông nghiệp xanh - tuần hoàn - an toàn” cần được địa phương hóa, gắn chứng nhận với ưu đãi thuế đất, tín dụng xanh, ưu tiên gian hàng số.

Sáu là, lồng ghép kinh tế bạc vào các chương trình mục tiêu quốc gia, như xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu; mở các hạng mục khuyến khích mô hình do người cao tuổi dẫn dắt hoặc tham gia nòng cốt; chấm điểm cộng khi đạt tiêu chí xanh - tuần hoàn - số; ưu tiên tiếp cận hạ tầng dùng chung, như kho lạnh mini, trạm sơ chế, trạm sấy năng lượng Mặt trời...

Bảy là, nâng cao vai trò của các tổ chức đoàn thể. Hội Người cao tuổi Việt Nam phối hợp với đoàn thanh niên, hội nông dân phát hiện - tôn vinh - nhân rộng điển hình “người cao tuổi làm kinh tế xanh giỏi”; thúc đẩy câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau chuyển hướng mạnh sang hỗ trợ sinh kế xanh, chăm sóc sức khỏe chủ động, học tập suốt đời; kết nối bác sĩ gia đình - trạm y tế xã để quản lý bệnh mạn tính, theo dõi dinh dưỡng - vận động phù hợp, tạo “hậu phương sức khỏe” cho người cao tuổi tiếp tục làm việc.

Tám là, củng cố “hạ tầng mềm” chất lượng - tín nhiệm. Các địa phương hỗ trợ chuẩn hóa quy trình, tiêu chuẩn an toàn - truy xuất; vận hành cơ chế “tín nhiệm cộng đồng” cho sản phẩm do người cao tuổi phụ trách (sổ tay chất lượng, nhật ký canh tác, mã QR liên kết thông tin làng - xã). Khi chữ tín cộng đồng được đưa lên môi trường số, câu chuyện sản phẩm có “linh hồn” sẽ giúp nông sản xanh tìm được thị trường bền vững./.

Chuyên mục: Bên lề sự kiện