Chuyển đổi để gia tăng vai trò của kinh tế nhà nước
Trần Nhàn
Điều kiện, tiền đề thuận lợi
Kinh tế nhà nước là một thành phần trong nền kinh tế quốc gia. Ở các nước trên thế giới, tùy thuộc vào lịch sử và mức độ phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế và định hướng chính sách kinh tế mà có những nhìn nhận giống nhau và khác nhau về vai trò của thành phần kinh tế nhà nước.
Thông qua kinh tế nhà nước, nhà nước vừa trực tiếp “làm kinh tế”, vừa điều hành, quản lý, kiểm soát sự phát triển và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Có thể thấy được từ đó vai trò quan trọng của kinh tế nhà nước mà tất cả các thành phần kinh tế khác không thể có được, càng không thể thay thế được.
Theo thời gian, tỷ trọng của các doanh nghiệp nhà nước và của phần vốn, cổ phần của nhà nước trong các doanh nghiệp tại nhiều nước, đặc biệt ở các nước công nghiệp phát triển có giảm. Quá trình này được gọi là tư nhân hóa nền kinh tế.
Nguyên do nằm ở diễn biến tình hình chính trị - xã hội nội bộ và ở hiệu quả hoạt động kinh tế của thành phần kinh tế nhà nước. Ở nơi này, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh thua lỗ và trở thành gánh nặng tài chính đối với nhà nước; các doanh nghiệp có sự tham gia vốn, cổ phần của nhà nước hoạt động kinh doanh thua lỗ khiến nhà nước bị thiệt hại nhiều hơn được lợi.
Nhà nước, vì thế, tiến hành tư nhân hóa hoàn toàn hay từng phần những doanh nghiệp này. Ở nơi khác, có quan điểm cho rằng nhà nước chỉ nên duy trì những doanh nghiệp hoạt động trên những lĩnh vực sản xuất và dịch vụ thiết yếu cho người dân và xã hội, nhưng tư nhân không muốn làm hay không thể làm được.
Cho tới tận thời nay, Thủ tướng Anh Margaret Thatcher và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan vẫn được nhìn nhận là những người thúc đẩy mạnh mẽ nhất việc thu hẹp thành phần kinh tế nhà nước.
Tư nhân hóa được thực thi ở nhiều nền kinh tế trên thế giới. Nhưng điều này không có nghĩa tỷ trọng của thành phần kinh tế nhà nước chỉ có giảm và giảm. Ở nhiều nơi, tỷ trọng ấy vẫn có tăng cho thời gian nhất định khi nhà nước phải bỏ tiền ra để cứu và mua lại những doanh nghiệp bị phá sản, hoặc có nguy cơ bị phá sản nếu những doanh nghiệp này, đặc biệt các ngân hàng, quỹ tín dụng và quỹ bảo hiểm, thuộc diện “có liên quan đến hệ thống”, tức là có thể đe dọa sự tồn vong của nền kinh tế, an ninh và ổn định của toàn xã hội.
Chuyển đổi số là chuyện không đơn giản, không dễ dàng và tốn không ít chi phí đối với mọi thành phần kinh tế. Thành phần kinh tế nhà nước có điều kiện, tiền đề thuận lợi hơn cả vì nhà nước chủ động trong thu, chi, phân bổ nguồn tài chính, vốn cho đầu tư phát triển kinh tế và hậu thuẫn các thành phần kinh tế khác; có thể đảm trách vai trò đầu tàu, dẫn dắt và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác, tạo dựng khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác phát triển trong kỷ nguyên số.
Đảm trách vai trò tiên phong
Vai trò và việc thực thi vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong kỷ nguyên số được các nơi trên thế giới xác định và tiến hành khác nhau. Nhưng điểm chung khá phổ biến, đặc biệt ở các nền kinh tế phát triển trên thế giới, là nhà nước không thành lập thêm doanh nghiệp hay gia tăng sự tham gia vốn, cổ phần vào các doanh nghiệp được thành lập mới trong kỷ nguyên số.
Điểm chung nữa là ở các doanh nghiệp nhà nước đã được thành lập và ở các doanh nghiệp đang hoạt động có sự tham gia vốn, cổ phần của nhà nước, nhà nước đảm trách vai trò đi tiên phong trong chuyển đổi số và vận dụng chuyển đổi số, đi đầu trong việc thực thi mọi chủ trương, đường lối, chính sách, luật pháp về chuyển đổi số và liên quan đến chuyển đổi số.
Nhà nước dùng thực tiễn để chứng minh hiệu quả thực tế, thiết thực của luật pháp và chính sách nhằm khích lệ, thôi thúc các thành phần kinh tế khác chuyển đổi theo và cùng phát triển.
Bài học kinh nghiệm được coi là thành công của kinh tế nhà nước tại các nước trên thế giới trên phương diện này là nhà nước tạo dựng những tiền đề cần thiết và điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác phát triển trong kỷ nguyên số.
Thông qua luật pháp và biện pháp chính sách, thông qua cơ chế và đầu tư công, kinh tế nhà nước trong kỷ nguyên số đi đầu và đóng vai trò quyết định đối với việc gây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mạng lưới chuỗi cung ứng quốc gia cũng như quốc tế, hệ thống dịch vụ logistics cho các thành phần kinh tế khác phát triển trong kỷ nguyên số.
Để hỗ trợ các thành phần kinh tế khác chuyển đổi số và phát triển công nghệ, chính phủ ở các nền kinh tế phát triển đều đưa ra thực thi những chương trình, kế hoạch đầu tư với quy mô tài chính lớn vào các dự án công nghệ cao và cơ sở hạ tầng công nghệ số; vào nghiên cứu và phát triển nói chung và liên quan đến chuyển đổi số nói riêng để kiến tạo, phát triển nền kinh tế số.
Đồng thời, thành phần kinh tế nhà nước ở các nền kinh tế trên còn tập trung vào hai khía cạnh.
Khía cạnh thứ nhất là bảo đảm duy trì và không ngừng cải thiện môi trường ổn định, an toàn và thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác trong kỷ nguyên số. Nhà nước luôn phải có đối sách thích hợp, kịp thời cho trường hợp xảy ra đột biến bất lợi và khủng hoảng, nền kinh tế quốc gia bị vạ lây bởi biến cố bất lợi ở bên ngoài.
Trong kỷ nguyên số, việc thúc đẩy phát triển bền vững và bảo đảm phát triển bền vững trở nên càng thêm quan trọng và cần thiết. Trong kỷ nguyên số cũng như ở những thời trước, kinh tế nhà nước không thể là kinh tế bao cấp hay bù lỗ.
Nhưng ở kỷ nguyên số, kinh tế nhà nước trên một số lĩnh vực nhất định phải sẵn sàng chấp nhận mức độ lợi nhuận thấp hơn để bảo đảm có được sự phát triển bền vững dài hạn khi các thành phần tư nhân không sẵn sàng đầu tư phát triển vì mức độ lợi nhuận thấp.
Khía cạnh thứ hai là kinh tế nhà nước đóng vai trò quan trọng và quyết định ở kỷ nguyên số trong việc giảm bất bình đẳng xã hội, thúc đẩy cạnh tranh kinh tế và thương mại công bằng, lành mạnh, cũng như bảo đảm và tăng cường an sinh xã hội.
Dịch vụ công, chăm sóc sức khoẻ, bảo hiểm y tế, phúc lợi và an sinh xã hội,... đều là những vấn đề phức tạp hơn, nhưng việc giải quyết chúng lại có thể khả thi hơn trong kỷ nguyên số.
Kinh nghiệm thực tiễn từ các nơi trên thế giới về xác định và thực thi vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong kỷ nguyên số còn cho thấy hợp tác quốc tế giữa các nền kinh tế nói chung, giữa thành phần kinh tế nhà nước của các nơi với nhau nói riêng rất đắc dụng và thiết thực.
Có nhiều mô hình để tham khảo. Có nhiều kinh nghiệm thực tiễn để nghiên cứu, xem xét vận dụng. Có nhiều sự trợ giúp quốc tế về tài chính và kỹ thuật có thể tận dụng. Nhờ đó, thành phần kinh tế nhà nước có thể phát triển mạnh mẽ, vượt qua mọi thách thức trong kỷ nguyên số./.
Các bài cũ hơn



