08/02/2025 | 04:05 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Một số vấn đề về cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững

Phạm Việt Dũng
Một số vấn đề về cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững Doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội_Ảnh minh họa
Doanh nghiệp nhà nước luôn giữ vững vai trò chủ lực và là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, để thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, rất cần hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với khu vực doanh nghiệp này phù hợp với cơ chế thị trường.

Vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước

Chủ trương, quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong nền kinh tế đã có những thay đổi qua các kỳ đại hội cùng với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng, sự phát triển của nền kinh tế, của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. 

Tuy nhiên, vai trò, vị trí của DNNN luôn được khẳng định và được định hướng bởi chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nhà nước, cũng như việc sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN.

Những kết quả tích cực

Một là, thời gian qua, số lượng DNNN đã giảm mạnh cùng với việc thực hiện cơ cấu lại, cổ phần hóa (CPH), thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Mặc dù chỉ chiếm gần 0,4% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh, nhưng các DNNN vẫn đang nắm giữ nhiều nguồn lực quan trọng của nền kinh tế; quản lý, khai thác phần lớn tài sản thuộc sở hữu toàn dân như khoáng sản, tài nguyên, kết cấu hạ tầng một số ngành then chốt...

Hai là, các DNNN đang giữ vai trò chi phối nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế.

Ba là, DNNN có vai trò lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trực tiếp tham gia phục vụ an ninh - quốc phòng, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh - quốc phòng và chủ quyền quốc gia. 

Các DNNN cũng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội, trước hết là kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp, nông thôn, năng lượng, viễn thông.

Trong năm 2023, các DNNN nói chung đã tập trung thực hiện các dự án đầu tư để nâng cao năng lực, quy mô sản xuất, kinh doanh. Các dự án cơ bản được DNNN khẩn trương thực hiện bảo đảm tiến độ, hiệu quả, tiết kiệm theo kế hoạch được duyệt. 

Tuy nhiên, vẫn còn DNNN chưa hoàn thành kế hoạch giải ngân dự án đầu tư. Theo báo cáo của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tính riêng 19 tập đoàn, tổng công ty do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu, số vốn đầu tư giải ngân ước đạt 161.000/208.328 tỷ đồng, tương đương gần 80% kế hoạch năm. 

Một số tập đoàn có kết quả giải ngân tích cực, như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đạt 97% kế hoạch; Tập đoàn Điện lực Việt Nam đạt 99%; Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam đạt 93%; Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đạt 135%...

Một số hạn chế, yếu kém

Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng vai trò của DNNN còn nhiều hạn chế, yếu kém:

Thứ nhất, DNNN vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp nắm các nguồn lực quan trọng và giữ vị trí chi phối trong nhiều ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Tuy nhiên, kết quả thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mà DNNN là nòng cốt, chưa rõ, còn nhiều hạn chế, bất cập.

Thứ hai, nhiều DNNN chưa thể hiện rõ vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, thúc đẩy các thành phần khác phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng.

Thứ ba, trong hỗ trợ và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn còn nhiều hạn chế. Việc DNNN tham gia thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phục vụ an ninh - quốc phòng có kết quả đáng ghi nhận, song thiếu rõ ràng về mục tiêu, nhiệm vụ và hiệu quả.

Thứ tư, hiệu quả của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, hiệu quả đầu tư chưa như kỳ vọng, đầu tư ra nước ngoài gặp khó khăn, một số dự án có vốn đầu tư lớn không thành công, tiềm ẩn rủi ro, một số dự án lỗ lũy kế lớn trong nhiều năm, phương thức cơ cấu lại chưa hiệu quả.

Nhận diện những vấn đề đặt ra trong cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp nhà nước

Những hạn chế, yếu kém của khu vực DNNN có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ cơ chế, chính sách phát triển cho khu vực này, tập trung ở một số mặt sau:

Một là, hệ thống thể chế pháp luật cho DNNN còn chưa đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, gây khó khăn cho việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Khuôn khổ pháp lý (luật, pháp lệnh) để thực hiện xử lý các doanh nghiệp, dự án thua lỗ, nhất là các dự án thua lỗ của ngành công thương, các tập đoàn, tổng công ty thua lỗ, mất vốn còn chưa đồng bộ. 

Hiện chưa có quy định cụ thể để ưu tiên cho các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, có sức lan tỏa lớn, các ngành, lĩnh vực nhà nước cần nắm giữ lâu dài; củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.

Hai là, cơ chế, chính sách về triển khai các hoạt động đầu tư của các DNNN còn vướng mắc. Quá trình triển khai các hoạt động đầu tư, kinh doanh kéo dài do quy định về trình tự, thủ tục đầu tư phức tạp, có nhiều vướng mắc dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, bỏ lỡ cơ hội khi thị trường có diễn biến thuận lợi.

Ba là, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp chưa rõ ràng. Thiếu tiêu chí bảo đảm việc minh bạch thông tin đối với tất cả các DNNN theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với các công ty đại chúng.

Bốn là, chính sách cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước còn bất cập. Chính sách thu hút cổ đông chiến lược chưa hiệu quả. Chưa có chính sách bảo đảm công khai, minh bạch thông tin. Chính sách thoái vốn nhà nước trong doanh nghiệp vẫn còn có sự chồng chéo giữa một số văn bản và mới chỉ dừng ở các quy định khung mang tính nguyên tắc.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững theo cơ chế thị trường

Trước hết, cần khẳng định vị trí, vai trò của DNNN trong xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh mới, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới...

Trên cơ sở đó, xác định DNNN theo hướng ưu tiên phát triển các ngành mang tính chất nền tảng, dẫn dắt, tạo động lực phát triển cho đất nước, nhận diện đúng về hoạt động kinh doanh của Nhà nước. Ở đây, Nhà nước được hiểu là chủ thể trên thị trường, bình đẳng trước pháp luật, đồng thời cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh với nhiệm vụ công ích, chính trị, đặt hàng, làm sao để tạo được véc-tơ đồng chiều.

Trước mắt, cần tập trung thực hiện một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy khu vực DNNN phát triển bền vững:

Thứ nhất, sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật, tạo khuôn khổ và hành lang pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất để cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Nghiên cứu, rà soát sửa đổi cơ chế quản lý, giám sát và thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện sở hữu nhà nước, hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát DNNN và vốn, tài sản của nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp một cách rõ ràng hơn, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay, làm cơ sở cho các DNNN hoạt động, tận dụng được thế mạnh của các doanh nghiệp lớn, phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của DNNN.

Thứ hai, rà soát và hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, quản lý doanh nghiệp. Tăng cường minh bạch thông tin đối với tất cả các DNNN theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với các công ty đại chúng; nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về DNNN; có chế tài xử lý nhằm bảo đảm tính hiệu quả trong việc phối hợp quản lý, sắp xếp doanh nghiệp giữa các bộ, ngành, địa phương.

Thứ ba, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, có các cơ chế đặc thù để Ủy ban thực sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây là một trong những giải pháp cần thiết thay đổi phương thức quản lý vốn nhà nước đối với DNNN, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

Thứ tư, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng đối với DNNN trong thời gian tới. Nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức đảng, mô hình các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ chủ chốt doanh nghiệp, nâng cao tính đảng và ý thức tuân thủ pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong DNNN đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng./.