Phát huy vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước
Lê Minh Nghĩa* - Nguyễn Thùy Linh*** TS, Hiệp hội Tư vấn tài chính Việt Nam - ** ThS, Trưởng Ban Nghiên cứu, Viện Khoa học Tài chính và Quản lý

Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước thời gian qua
Tính đến hết năm 2023, tổng giá trị vốn nhà nước đang đầu tư tại các DNNN là 1.742.966 tỷ đồng. Tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của các DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước và các công ty con tính đến ngày 31-12-2023 là 5.966,95 triệu USD. Các DNNN đã đóng góp tỷ trọng lớn vào thu ngân sách nhà nước, khoảng 28% năm 2023.
Doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội, phục vụ chính sách điều tiết kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn giá cả, là cánh tay nối dài của Nhà nước để thực hiện điều hành chính sách, ổn định kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định cuộc sống của người dân, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa. Hoạt động của một số tập đoàn, tổng công ty thuộc Bộ Quốc phòng còn gắn với mục tiêu bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của một số tập đoàn, tổng công ty góp phần giữ vững, nâng cao uy tín, thúc đẩy quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao và đối ngoại quốc phòng.
Một số DNNN đã xây dựng được các thương hiệu sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ uy tín, có ảnh hưởng trong khu vực và quốc tế về nhiều lĩnh vực, như dịch vụ vận tải (Vietnam Airlines), cảng biển và logistics (Saigonnewport), viễn thông (Viettel)...
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các DNNN nắm giữ tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước dù chỉ chiếm 0,3% số doanh nghiệp và 6,6% số lao động nhưng sở hữu nguồn vốn chiếm 20,5% khu vực doanh nghiệp, tạo ra 12% doanh thu thuần và 23,4% lợi nhuận trước thuế (năm 2022).
Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thể hiện vai trò quan trọng ở các lĩnh vực, như:
1- bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia (Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam chiếm thị phần chủ đạo trong cơ cấu nguồn điện);
2- viễn thông (Viettel, VNPT và Mobifone đã thể hiện rõ nét vai trò dẫn dắt trong chuyển đổi số, xây dựng hạ tầng số cho các cơ quan chính phủ và nhiều địa phương, tổ chức, doanh nghiệp);
3- kinh doanh bán lẻ xăng dầu (Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam Petrolimex);
4- bảo đảm an ninh lương thực quốc gia (Tổng Công ty Lương thực miền Bắc, Tổng Công ty Lương thực miền Nam);
5- vận tải và logistics (Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam, Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn, Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam);
6- tài chính - ngân hàng (4 ngân hàng thương mại cổ phần chủ lực của ngành ngân hàng gồm Agribank, VCB, BIDV, Vietinbank).
Ngoài ra, DNNN có vai trò lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích, như cấp nước sạch, thu gom và xử lý rác thải, ánh sáng, cây xanh; xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, như hạ tầng giao thông, nông nghiệp, nông thôn, năng lượng, viễn thông.
Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, DNNN còn yếu ở những ngành có ảnh hưởng, quyết định đến việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, như các ngành công nghệ cao, cơ khí chính xác, sản xuất chế tạo linh kiện, máy móc và thiết bị hoàn chỉnh cho các ngành sản xuất, công nghệ nguồn...
Tỷ trọng đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có tính dẫn dắt, tạo động lực, nhất là những ngành mới, như năng lượng sạch, tái tạo, công nghệ cao, chip bán dẫn, chưa được ưu tiên, chưa đủ lớn để tạo động lực bứt phá, có tính lan tỏa.
Năng lực cạnh tranh, khoa học - công nghệ của DNNN nhìn chung còn hạn chế. Đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đây là một trong những điểm hạn chế khiến cho các DNNN không những chưa thực hiện tốt vai trò dẫn dắt, mà có thể tụt hậu so với các doanh nghiệp khác.
Hầu hết các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động trong ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn đều vận hành theo phương thức khép kín, chưa tạo điều kiện để các doanh nghiệp khác tham gia. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của DNNN nhìn chung chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, ảnh hưởng đáng kể đến vai trò là “lực lượng vật chất của kinh tế nhà nước”.
Để bảo đảm vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước
Xuyên suốt các giai đoạn từ đổi mới đến nay, DNNN luôn được khẳng định với vai trò chủ đạo, then chốt và nòng cốt. Tính nòng cốt của DNNN đã được cụ thể với các nội dung: “là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước”; phát triển về quy mô, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số lĩnh vực; đầu tư vào các lĩnh vực then chốt (4 lĩnh vực then chốt mà DNNN tập trung vào đã được quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước 2014); dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.
Các mục tiêu phát triển DNNN đến năm 2025 và 2030 cũng được đặt ra tại Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về “Tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” và Văn kiện Đại hội XIII.
Theo đó, đến năm 2025: “hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước; xử lý cơ bản xong những yếu kém, thất thoát của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước”. Đến năm 2030:“hầu hết các doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần. Trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại tương đương với các nước trong khu vực; đáp ứng đầy đủ chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; hình thành đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”.
Để bảo đảm vai trò then chốt của DNNN trong thời gian tới, trước hết, cần tăng cường công tác quy hoạch, kế hoạch xây dựng và phát triển khu vực DNNN, trong đó: cần làm rõ những lĩnh vực then chốt mà DNNN cần đầu tư vào trong từng giai đoạn; đồng thời, cần có sự kết nối giữa quy hoạch phát triển khu vực DNNN với quy hoạch phát triển doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, có sự kế thừa, chuyển dịch để bảo đảm vai trò dẫn dắt của DNNN; chú trọng việc đầu tư của DNNN vào các lĩnh vực công nghệ mới, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN, nhanh chóng ban hành Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp sửa đổi để tạo hành lang pháp lý thống nhất trong việc quản lý và vận hành các DNNN.
Cùng với đó, chú trọng nâng cao năng lực quản trị tại các DNNN, hướng tới tiệm cận các thông lệ quốc tế, tạo tiền đề để các DNNN lớn có thể vươn ra thị trường quốc tế; trong đó đặc biệt chú trọng việc chọn lựa các nhân tài để tham gia quản lý, điều hành tại DNNN./.
Các bài cũ hơn



