13/03/2025 | 23:30 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Chuyển đổi số và vai trò đầu tàu của kinh tế nhà nước

Nguyễn Sơn
Chuyển đổi số và vai trò đầu tàu của kinh tế nhà nước Hội nghị tập huấn công tác chuyển đổi số do Tập đoàn Hóa chất Việt Nam tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19-5-2023_Ảnh: vinachem.com.vn
Chuyển đổi số mở ra cơ hội để kinh tế nhà nước tổ chức lại hiệu quả hơn, làm đầu tàu dẫn dắt tất cả các thành phần kinh tế tiến vào kỷ nguyên số.

Khi đầu tàu gặp khó

Kinh tế nhà nước là một trong những thành phần của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; là khu vực thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối, cũng như các tài nguyên, khoáng sản và các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước. 

Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện qua việc đi đầu về nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững đồng thời hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển và tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô. 

Bên cạnh đó, kinh tế nhà nước còn là đầu tàu dẫn dắt các loại hình kinh tế khác trong việc tạo dựng và phát triển các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư hoặc có hàm lượng khoa học công nghệ cao mà tiềm lực triển khai của khu vực tư nhân còn hạn chế; bảo đảm năng lực cạnh tranh quốc gia; an ninh quốc phòng và an sinh xã hội.

Nhìn lại những năm qua, khi kinh tế thế giới lâm vào bất ổn, suy thoái, dịch bệnh hoành hành, chính sức mạnh của kinh tế nhà nước đã là trụ đỡ cho nước ta bảo đảm cân đối vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng khá cao. Mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước chiếm chưa đến 0,1% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động (số liệu năm 2021) nhưng hoạt động hiệu quả với hiệu suất sử dụng lao động rất cao, gấp 18,9 lần so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. 

Các chỉ số tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh đều có sự tăng trưởng; các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, chiếm thị phần rất lớn trong một số lĩnh vực như năng lượng, viễn thông, ngân hàng... Có lĩnh vực như viễn thông, các doanh nghiệp nhà nước nắm tới 90% thị trường.

Tuy nhiên, khi thị trường phát triển, chính quy mô của sở hữu nhà nước cũng như đặc điểm của hình thức sở hữu của thành phần kinh tế này bộc lộ những bất cập làm làm giảm tính hiệu quả, kéo theo sự sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. 

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bên cạnh các kết quả tích cực, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, chưa thể hiện rõ vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo lập sân chơi, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển; khả năng cạnh tranh, nhất là cạnh tranh quốc tế, chưa cao.

Để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa vai trò đầu tàu của kinh tế nhà nước, đòi hỏi nhiều giải pháp căn cơ như tái tổ chức các công ty lớn, áp dụng các mô hình quản lý mới, giao quyền quyết định và tự chủ cao hơn cho ban lãnh đạo, tạo lập cơ chế bảo vệ những người dám nghĩ dám làm..., đặc biệt cần phải tìm được giải pháp đột phá để kéo cả đoàn tàu tiến mạnh về phía trước.

Chuyển đổi số mở ra cơ hội mới

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra vận hội mới cho nhân loại. Công nghệ thông tin, Internet, trí tuệ nhân tạo (AI), kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big data), chính phủ điện tử,... trở thành những khái niệm quen thuộc với mọi người. Kỷ nguyên số sắp xếp và định hình lại hàng loạt khái niệm, mở đường cho những chuyển biến sâu rộng về mặt nhận thức, tư duy và hành động. 

Trong đại dịch COVID-19, toàn thế giới buộc phải nhìn nhận lại quan niệm về kinh tế nhà nước, vốn một thời gian dài bị coi là “kẻ cản trở thị trường tự do phát triển” bởi ảnh hưởng của chủ nghĩa tân tự do và “Đồng thuận Washington”. 

Tuy nhiên, vào lúc khó khăn nhất, “kẻ cản trở” ấy lại trở thành trụ đỡ cho nền kinh tế thế giới thoát được một cuộc sụp đổ tưởng như không thể tránh khỏi. Sau đại dịch, vai trò của nhà nước đối với kinh tế càng được khẳng định. 

Nhiều ý kiến cho rằng, chính những tiến bộ của công nghệ số đã giải quyết được hàng loạt nút thắt cho phép các tổ chức cồng kềnh như nhà nước và các đại công ty hoạt động hiệu quả hơn hẳn, tìm lại được chỗ đứng trong thế giới hiện đại.

Chuyển đổi số mang rất nhiều lợi ích đối với doanh nghiệp. Nó thu hẹp khoảng cách giữa các phòng, ban trong tổ chức bằng hệ thống giao tiếp nội bộ khiến sự vận hành trở nên thông suốt. 

Điều này có ý nghĩa vô cùng lớn đối với các tổ chức lớn như hệ thống quản lý tài nguyên của nhà nước hay các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ. Nó tăng sự minh bạch và hiệu quả trong hệ thống quản trị doanh nghiệp bằng các phần mềm quản trị. Nó tối ưu hóa năng suất nhân viên bằng cách giao các công việc giản đơn cho AI tự động thực hiện, để nhân viên có thời gian học tập nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện các công việc quan trọng hơn. 

Đồng thời, chuyển đổi số cũng giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong việc tương tác, cũng như chính sách chăm sóc và phục vụ khách hàng.

“Đồng thuận Washington” là chương trình cải cách kinh tế do IMF, WB và Bộ Tài chính Mỹ (cùng có trụ sở tại Washington) đề xuất hồi những năm 90 của thế kỷ XX, bao gồm 10 điểm: kỷ luật trong chính sách tài chính; hướng chi tiêu công vào giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng; cải cách hệ thống thuế; giữ lãi suất thực tế thấp nhưng luôn dương; giữ tỷ giá hối đoái cạnh tranh; tự do hóa thương mại; mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài; tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước; loại bỏ các rào cản tham gia thị trường và cản trở cạnh tranh; củng cố khung pháp lý cho quyền sở hữu.

Mặc dù có nhiều điểm lợi từ chuyển đổi số, nhưng việc tiến hành ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chưa được lạc quan cho lắm. Theo một khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Dự án USAID LinkSME tiến hành năm 2022 đối với 1.000 doanh nghiệp, có 48,8% số doanh nghiệp từng sử dụng một vài giải pháp chuyển đổi số để đáp ứng những nhu cầu cách ly tức thời đặt ra do dịch COVID-19, nhưng sau đó không còn sử dụng nữa. 

Khảo sát cũng cho thấy, chỉ có 6,2% số doanh nghiệp đã hoàn thành xác định mục tiêu chuyển đổi số và chỉ 7,6% số doanh nghiệp có kế hoạch sẽ từng bước chuyển đổi số.

Trong khi đó, tình hình chuyển đổi số ở các công ty công nghệ thông tin và doanh nghiệp nhà nước khá hơn hẳn, chủ yếu do quy mô và trình độ công nghệ vượt trội. 

Chẳng hạn Tập đoàn Hóa chất Việt Nam có Chương trình chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, theo đó 100% số đơn vị thuộc tập đoàn phải ứng dụng công nghệ số trong quản trị, 80% cơ sở dữ liệu, quy trình nghiệp vụ, quy trình sản xuất, kinh doanh phải được số hóa; đến năm 2025, 70% các nghiệp vụ liên quan đến khách hàng phải thực hiện trên môi trường số, 100% số đơn vị thuộc tập đoàn ứng dụng thương mại điện tử trong kinh doanh. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước khác cũng có các kế hoạch tương tự.

Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ đặt mục tiêu kinh tế số phải đạt 20% GDP vào năm 2025 và 30% GDP vào năm 2030. 

Để đạt được mục tiêu đó, kinh tế nhà nước, với ưu thế vượt trội về công nghệ và tài chính, cần tiên phong dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế, đi đầu trong những giải pháp then chốt nâng cao năng lực chuyển đổi số của hệ thống doanh nghiệp. 

Việc đồng bộ hóa hệ thống dữ liệu quốc gia về tài nguyên, khoáng sản, tài sản cũng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ các doanh nghiệp đẩy nhanh chuyển đổi số để bắt kịp sự tiến bộ đó. Như vậy, có thể nói, trong công cuộc chuyển đổi số để tiến vào kỷ nguyên số, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò đầu tàu và nó có đầy đủ khả năng để làm tốt vai trò đó./.


Trang: 1 2 3 4 5 ... 24 Sau