Kỷ nguyên dân tộc vươn mình
Với Việt Nam, những biến chuyển này vừa tạo ra nhiều thách thức nhưng cũng là thời cơ chiến lược quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Dù còn không ít khó khăn, nhưng với những thành tựu vượt bậc đạt được sau gần 40 năm đổi mới, nhất là những kết quả tích cực trong giai đoạn 2021 - 2024 cũng như việc phát huy sức mạnh đoàn kết, tinh thần đổi mới, sáng tạo, khát vọng vươn lên của toàn Đảng, toàn dân..., chúng ta có cơ sở để tự tin, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thịnh vượng, hùng cường.
I. NHỮNG THAY ĐỔI CÓ TÍNH THỜI ĐẠI
Nhiều chuyên gia cho rằng, thế giới đang trong giai đoạn phát triển mới với những thay đổi có tính thời đại từ việc xác lập một trật tự thế giới mới và những tác động mạnh mẽ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư...
Một thế giới đa cực?
Những năm qua, việc xây dựng “trật tự thế giới dựa trên luật lệ” là mục tiêu được cộng đồng quốc tế hướng tới, nhưng trên thực tế, trật tự này liên tục đối mặt với những thách thức nghiêm trọng, khi các nước lớn luôn tư duy và hành động dựa trên sức mạnh của mình và sẵn sàng đưa ra “luật chơi” riêng, sử dụng sức mạnh, can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác để đạt các mục tiêu khác nhau, trong đó có mục tiêu địa - chính trị. Cạnh tranh quyền lực trên quy mô toàn cầu giữa các cường quốc ngày càng gia tăng. Đặc biệt, từ đầu thế kỷ XXI đến nay, do sự suy giảm tương đối vị thế của Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, sự trỗi dậy của Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và một số nước khác, trật tự thế giới đang ở thế giằng co giữa “một cực” và “đa cực”, trong đó xu hướng đa cực có phần trội hơn.
Theo nhận định của các chuyên gia, việc Trung Quốc quyết tâm theo đuổi “giấc mộng Trung Hoa”, nước Nga phát động chiến tranh ở Ukraina, chống lại ảnh hưởng, trật tự phương Tây do Mỹ đứng đầu, cũng như việc Mỹ đang dồn mọi nỗ lực, tập hợp lực lượng chống lại Nga và Trung Quốc trong giai đoạn này chính là những tiền đề hình thành nên trật tự đa cực, đa trung tâm quyền lực. Theo dự báo, đến năm 2030, Mỹ vẫn tiếp tục giữ vị trí siêu cường số 1 thế giới, nhưng Trung Quốc nhiều khả năng sẽ vượt Mỹ về sức mạnh tổng hợp quốc gia. Trong khi đó, các quốc gia khác như Nga, Nhật Bản, Ấn Độ hay Liên minh châu Âu (EU),... có xu hướng tự chủ hơn, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với cả Mỹ và Trung Quốc, nhằm gia tăng mức độ ảnh hưởng của mình trên thế giới và ủng hộ một trật tự thế giới đa cực dựa trên luật lệ. EU dù gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn hiện nay nhưng vẫn là một trong những chủ thể quan trọng trong quan hệ quốc tế. Còn nước Nga đã phục hồi tiềm lực quân sự ở mức đủ răn đe các nguy cơ đối với nền an ninh, bảo đảm ổn định chiến lược và toàn vẹn lãnh thổ. Bên cạnh việc tích cực mở rộng vị thế kinh tế, ngoại giao và an ninh ở châu Á, Nhật Bản vẫn tiếp tục củng cố mạng lưới liên minh với Mỹ và các đồng minh khác.
Các quốc gia khác trên thế giới cũng đang đổi mới chính sách quốc gia, chú trọng đầu tư vào khoa học - công nghệ nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển và tham gia có hiệu quả hơn vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, cũng như bảo đảm an ninh quốc gia. Trong bối cảnh đó, các vấn đề an ninh toàn cầu cả truyền thống và phi truyền thống nổi lên ngày càng nhiều,... tiếp tục đòi hỏi các cường quốc, trong đó có cả Mỹ và Trung Quốc cần hợp tác với các quốc gia, thực thể khác để giải quyết... Tất cả những điều này đã và đang thúc đẩy hình thành tính đa cực trong trật tự thế giới.
Thuật ngữ “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” xuất hiện lần đầu tiên và được lấy làm chủ đề của Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos (tháng 1-2016), đó là “làm chủ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Từ đó đến nay, thuật ngữ này được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. |
Trong xu hướng đa cực, các mạng lưới hợp tác, liên minh các nhóm nước có chung lợi ích hay cùng nhau chia sẻ lợi ích chung sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc định hình trật tự thế giới. Hiện nay, cả 2 siêu cường Mỹ và Trung Quốc đang tích cực liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng để tranh đua với nhau. Trung Quốc đang tiếp tục củng cố Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), đẩy mạnh Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI), nhóm BRICS (gồm Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Nam Phi), hợp tác Trung Quốc - ASEAN...; đồng thời, thiết lập các diễn đàn đa phương quốc tế, như Diễn đàn châu Á Bác Ngao, Hội nghị các chính đảng trên thế giới, Hợp tác Đông Bắc Á với Nhật Bản, Hàn Quốc... để làm đối trọng với Mỹ. Còn Mỹ đưa ra Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP), tái thiết lập và củng cố các liên kết quốc phòng và an ninh thông qua nhóm Bộ tứ (QUAD), Đối tác ba bên (AUKUS) hay đưa ra sáng kiến “Định hướng phát triển liên minh và đối tác” (GDAP) và đang nỗ lực tập hợp các nước nhằm cạnh tranh với Trung Quốc và Nga. Trong khi đó, Nga đang củng cố Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU)... Ấn Độ cũng nỗ lực triển khai Sáng kiến Hành lang tăng trưởng Á - Phi (AAGC), Sáng kiến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPOI). EU - một trung tâm quyền lực lớn - cũng tiếp tục tự đổi mới để độc lập, tự chủ hơn trong cuộc đua địa - chính trị khu vực và toàn cầu...
Trong bối cảnh quốc tế đó, vai trò, vị trí của từng quốc gia, dân tộc sẽ phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả nắm bắt, tận dụng thời cơ lịch sử, tích cực tham gia vào quá trình xác lập trật tự thế giới mới trong những năm tới.
Cơ hội từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Bên cạnh những biến động trong các mối quan hệ quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) diễn ra mạnh mẽ từ những thập niên đầu của thế kỷ XXI cũng đang tạo ra những thay đổi sâu sắc, có tính hệ thống trên phạm vi toàn cầu. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) nhận định, CMCN 4.0 “là một chương mới trong sự phát triển của con người, được hỗ trợ bởi những tiến bộ công nghệ phi thường...”. Tốc độ, phạm vi và chiều sâu của cuộc cách mạng này đang buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về cách các quốc gia phát triển, cách các tổ chức tạo ra giá trị. Cuộc CMCN 4.0 còn là cơ hội giúp mọi người, bao gồm các nhà lãnh đạo, nhà hoạch định chính sách và mọi người từ mọi nhóm thu nhập và quốc gia, khai thác các công nghệ hội tụ để tạo ra một tương lai toàn diện, lấy con người làm trung tâm...
Cụ thể, với sự kết hợp của các công nghệ mới như Internet vạn vật (IoT), robot, công nghệ in 3D, điện toán đám mây (Icloud), công nghệ di động, dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ nano - vật liệu mới, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử..., cuộc cách mạng này đang tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có thể tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để các nền kinh tế tiếp thu và ứng dụng những phát minh khoa học, sáng chế kỹ thuật và giải pháp công nghệ đa dạng, phong phú của nhân loại để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả của nền sản xuất xã hội.
Bên cạnh đó, đây cũng được xem là cơ hội để nhiều ngành kinh tế phát triển nhanh hơn, hình thành những ngành mới bằng cách mở rộng ứng dụng các thành tựu, tiến bộ của công nghệ thông tin, công nghệ số, kỹ thuật điều khiển, công nghệ sinh học...; là cơ hội để các quốc gia đang phát triển có thể “đi tắt, đón đầu”, hình thành và phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, thu hẹp khoảng cách, đuổi kịp những nước đi trước thông qua tiếp thu, làm chủ và ứng dụng nhanh chóng vào sản xuất kinh doanh, quản lý những tiến bộ, thành tựu công nghệ từ cuộc CMCN 4.0.
II. THẾ VÀ LỰC MỚI CHO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH
Bối cảnh quốc tế và những thành tựu vĩ đại đất nước đạt được sau gần 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đặt ra những yêu cầu, điều kiện thuận lợi để Đảng ta đề ra chiến lược phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Thế và lực nay đã khác
Tốc độ tăng trưởng cao, quy mô nền kinh tế mở rộng
Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, vị thế của nước ta được nâng cao trên tất cả các phương diện. Từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, với tổng sản phẩm nội địa (GDP) ở mức 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, nhờ những định hướng và giải pháp đúng đắn, nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao so với khu vực và thế giới (khoảng 5,9%; riêng giai đoạn 2016 - 2023 đạt khoảng 6%/năm), quy mô của nền kinh tế được mở rộng, rút ngắn khoảng cách với các nước.
Theo bảng xếp hạng của Trung tâm tư vấn CEBR (Vương quốc Anh), năm 2023, quy mô kinh tế của Việt Nam theo giá hiện hành đạt 430 tỷ USD, đứng thứ 34 trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, đứng thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN). Với GDP bình quân đầu người năm 2023 đạt gần 4.300 USD và năm 2024 là 4.620 USD, xếp thứ 6 trong khu vực ASEAN, Việt Nam ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp để gia nhập nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao.
Từ một nền kinh tế đóng cửa, khép kín, Việt Nam hội nhập sâu rộng vào thế giới, có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, trở thành đối tác thương mại lớn trên thị trường toàn cầu. Năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 783 tỷ USD, gấp hơn 100 lần so với những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao ở mức 2 con số, đạt 403 tỷ USD. Với lực đẩy từ xuất khẩu, cán cân thương mại năm 2024 tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp (từ năm 2016) với mức thặng dư khá cao (ước đạt 23 tỷ USD).
Trong những năm qua, Việt Nam được xem là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Theo Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD, năm 2023), Việt Nam nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất trên thế giới. Riêng 11 tháng đầu năm 2024, Việt Nam thu hút được gần 31,38 tỷ USD, tăng 1,0% so với cùng kỳ năm trước; vốn thực hiện ước đạt 21,68 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước, cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh
Không chỉ được đánh giá là nền kinh tế có độ mở thuộc loại cao nhất thế giới và được xếp vào nhóm 30 quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, thuộc nhóm những nền kinh tế tốt nhất để đầu tư..., chất lượng tăng trưởng của Việt Nam còn không ngừng được cải thiện, thể hiện qua tốc độ năng suất lao động liên tục tăng (giai đoạn 2016 - 2020 tăng 6,05%, 2021 - 2023 tăng 8,94%) và tăng trưởng dựa nhiều hơn vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế liên tục được cải thiện (giai đoạn 2011 - 2015 là 34,75%; giai đoạn 2016 - 2020 là 46,04% và giai đoạn 2021 - 2023 ước đạt khoảng 42%). Chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia theo công bố gần nhất là năm 2019 cũng tăng lên 61,5 điểm, cao hơn điểm trung bình toàn cầu (60,7 điểm) và tăng 10 bậc (từ vị trí 77 lên vị trí 67/141 nền kinh tế).
Bên cạnh đó, nhiều chỉ số quốc gia của Việt Nam cũng liên tục được cải thiện và vươn lên trên các bảng xếp hạng quốc tế, như Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII); Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI)...
Những kết quả phát triển kinh tế đã trở thành điều kiện quan trọng giúp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% (theo chuẩn cũ) năm 1993 xuống còn 2,93% (theo chuẩn nghèo đa chiều với tiêu chí cao hơn trước) năm 2023, đưa Việt Nam trở thành hình mẫu nổi bật về nỗ lực xóa đói giảm nghèo trong số các quốc gia đang phát triển. Chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục cải thiện, đạt 0,73 điểm năm 2023, cao hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập. Chỉ số phát triển bền vững (SDG) cũng liên tục gia tăng từ vị trí 88 năm 2016 lên 57 năm 2018 và 49 năm 2020...
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, những thành tựu vĩ đại đạt được sau gần 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo. “Đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới”, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định. |
Vị thế không ngừng được nâng cao
Cùng với những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, Việt Nam cũng thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, góp phần nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 nước, trong đó có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 9 nước, đối tác chiến lược với 10 nước, đối tác toàn diện với 13 nước.
Trong ngoại giao đa phương, Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Điều này thể hiện ở việc nước ta không chỉ tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn (điển hình là APEC), đóng góp quan trọng trong sự phát triển chung của khu vực ASEAN, mà còn hoàn thành nhiều trọng trách tại các cơ chế quốc tế như: Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, UNESCO...; tích cực tham gia các sáng kiến hợp tác khu vực, toàn cầu như: Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Mê Công - Lan Thương (MLC), Vành đai và Con đường (BRI), Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP)... Đặc biệt, Việt Nam chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến, tham gia vào giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới.
Với chủ trương đẩy mạnh hợp tác thương mại, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, đến nay Việt Nam đã ký 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới với những cam kết sâu rộng và toàn diện, như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Những bước tiến đó góp phần đưa Việt Nam trở thành mắt xích trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu.
III. KHƠI THÔNG “ĐIỂM NGHẼN” THỂ CHẾ
Mặc dù Đại hội XIV của Đảng được xác định là thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới, nhưng ngay từ năm 2024, những bước đà cần thiết cho sự chuyển mình quan trọng này như thực hiện 3 đột phá chiến lược, khơi thông các điểm nghẽn, nhất là điểm nghẽn thể chế đã được cả hệ thống chính trị tập trung triển khai với quyết tâm rất cao.
Nhận diện điểm nghẽn
Ngày 21-10-2024, trong bài phát biểu tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng, trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay ở nước ta là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn.
Theo Tổng Bí thư, biểu hiện của những điểm nghẽn thể chế hiện nay chính là chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi; các quy định chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, nhiều quy định còn khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khơi thông nguồn lực trong dân. Thủ tục hành chính còn rườm rà, dịch vụ công trực tuyến tuy được cải tiến nhưng chưa thuận tiện, thông suốt; tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu. Phân cấp, phân quyền chưa triệt để, chưa rõ trách nhiệm; sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “những tồn tại, hạn chế kéo dài nhiều năm cần khẩn trương khắc phục, không để cản trở phát triển, gây lãng phí, lỡ thời cơ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhưng trọng trách rất lớn đặt lên vai của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ”.
Trước đó, Nghị quyết số 27 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, ngày 9-11-2022, xác định một trong các mục tiêu và giải pháp quan trọng là xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, mở không gian cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững...
Nâng cao chất lượng xây dựng và hoàn thiện pháp luật
Nhằm kịp thời thể chế hóa chủ trương, Nghị quyết của Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, giải quyết những vấn đề có tính tất yếu khách quan đặt ra từ thực tiễn; Kỳ họp thứ tám, Quốc hội Khóa XV (bế mạc ngày 30-11-2024) đã khẩn trương, quyết liệt đẩy mạnh đồng bộ nhiều giải pháp đổi mới, cải tiến để quyết tâm nâng cao chất lượng xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Quốc hội đã biểu quyết thông qua 18 luật; xem xét, thông qua 21 nghị quyết, trong đó có 4 nghị quyết quy phạm pháp luật luật với tỷ lệ tán thành cao; cho ý kiến lần đầu đối với 10 dự án luật khác. Trong đó, việc xây dựng và trình Quốc hội thông qua dự thảo Luật Đầu tư công (sửa đổi), Luật sửa 4 luật trong lĩnh vực đầu tư; Luật sửa 9 luật trong lĩnh vực tài chính, ngân sách... là những thí dụ điển hình cho việc xây dựng luật theo hướng chuyển tư duy quản lý sang khơi thông nguồn lực với tinh thần đột phá, cải cách, phân cấp, phân quyền theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ giữ vai trò kiến tạo, tăng cường hoàn thiện thể chế và kiểm tra, giám sát; bảo đảm rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ kết quả; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tránh tạo cơ chế “xin - cho”; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể...
Việc Quốc hội xem xét, thông qua theo quy trình, thủ tục rút gọn tại một kỳ họp đối với 7 luật, 4 nghị quyết quan trọng với nhiều quy định mới được đánh giá là chính sách đột phá, nhằm kịp thời tháo gỡ ngay những khó khăn cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư công, thúc đẩy tăng trưởng; đồng thời, với tầm nhìn dài hạn, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới như quản lý và sử dụng dữ liệu, phát triển công nghiệp công nghệ số, phát triển năng lượng tái tạo..., tạo khuôn khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, phát triển kinh tế- xã hội...
Tập trung tháo gỡ vướng mắc về thể chế
Quán triệt tinh thần thể chế là nguồn lực, động lực, là mục tiêu của sự phát triển, năm 2024, Chính phủ tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược, đặc biệt là đột phá về thể chế. Theo đó, công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật được chỉ đạo quyết liệt với tư duy đổi mới trong cách nghĩ, cách làm, thông thoáng hơn, đúng thẩm quyền hơn; đồng thời tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn từ thực tiễn. Thành lập Ban Chỉ đạo do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban và các tổ công tác để rà soát, xử lý vướng mắc về thể chế, nhất là trong huy động nguồn lực, sản xuất kinh doanh, trong triển khai các dự án, công trình kết cấu hạ tầng chiến lược...
Bên cạnh đó, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Cắt giảm hơn 3.000 quy định kinh doanh; phân cấp cho địa phương gần 700 thủ tục hành chính; cung cấp thêm gần 1.800 dịch vụ công trực tuyến, đạt 4.400 dịch vụ công trực tuyến cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, chiếm 70% tổng số thủ tục hành chính..., góp phần tiết giảm chi phí tuân thủ, tạo môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Cùng với đó, chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và triển khai Đề án số 06 về “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” đạt nhiều kết quả tích cực. Đến nay, 100% số cơ quan nhà nước triển khai mạng truyền số liệu chuyên dùng; 100% số bộ, ngành, địa phương đã xây dựng hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính; cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối, chia sẻ, xác thực, làm sạch dữ liệu với 85 bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước (86,3 triệu công dân đã được cấp thẻ căn cước gắn chip điện tử; hơn 75,7 triệu tài khoản VNeID đã được cấp). Tích cực thí điểm, triển khai nhiều tiện ích số như cấp phiếu lý lịch tư pháp và triển khai sổ sức khỏe điện tử trên nền tảng VNeID... Với những nỗ lực đó, năm 2024, Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam tăng 15 bậc, xếp hạng 71/193 quốc gia.
IV. QUYẾT TÂM TINH GỌN BỘ MÁY, TẠO ĐỘNG LỰC CHO TĂNG TRƯỞNG
Việc sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị phải bám sát các nguyên tắc của Đảng, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ của Đảng, Hiến pháp, pháp luật và yêu cầu thực tiễn. Quán triệt, kiên định thực hiện các nguyên tắc cốt lõi, bảo đảm vận hành thông suốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Tổ chức bộ máy mới hoạt động phải tốt hơn tổ chức bộ máy cũ; trong quá trình sắp xếp phải bảo đảm vận hành thông suốt, không gián đoạn, mất thời gian chờ đợi; không bỏ trống địa bàn, lĩnh vực; không ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế - xã hội, đời sống của người dân. Bộ máy sau sắp xếp, tinh gọn phải được vận hành thông suốt, hiệu năng, hiệu quả, hiệu lực. Tinh gọn tổ chức bộ máy phải gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đáp ứng phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh. Có cơ chế sàng lọc đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín; thu hút, sử dụng người có năng lực nổi trội... Tổng Bí thư Tô Lâm |
Cùng với việc tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị; là việc chú trọng làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống để tạo những nền tảng vững chắc cho kỷ nguyên vươn mình.
Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy
Trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới của đất nước, năm 2024, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị thống nhất rất cao với quyết tâm chính trị mạnh mẽ để thực hiện chủ trương tổng kết sớm, toàn diện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả” trong toàn hệ thống chính trị.
Bộ Chính trị xác định, việc tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW và sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, cần thống nhất rất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành, trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần gương mẫu, chủ động, thực hiện với quyết tâm cao nhất, hành động quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”, “Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở”; xác định những nội dung, công việc ưu tiên và phối hợp nhịp nhàng trong triển khai thực hiện, quyết tâm hoàn thành việc tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo đúng mục tiêu, yêu cầu và tiến độ đề ra.
Làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống
Tăng cường đầu tư phát triển
Trên cơ sở xác định đầu tư là một trong những động lực quan trọng, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã tập trung đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, nhất là các chương trình, dự án, công trình quan trọng quốc gia; thu hồi những dự án không triển khai theo kế hoạch, kiên quyết loại bỏ các dự án không cần thiết... Qua đó, hiệu quả đầu tư công đã được nâng lên, như việc hoàn thành Dự án 500kV mạch 3 Quảng Bình - Hưng Yên chỉ sau hơn 6 tháng thi công thần tốc. Nhiều dự án, công trình điện trọng điểm như Dự án Nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và 4; chuỗi Dự án điện khí Lô B - Ô Môn được triển khai tích cực; một số đoạn đường bộ cao tốc và nhiều công trình giao thông quan trọng được hoàn thành, bảo đảm kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn, các vùng miền trong cả nước và giao thương quốc tế...
Theo báo cáo của Công ty nghiên cứu thị trường và tư vấn Mordor Intelligence, quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam năm 2024 ước đạt 276,37 tỷ USD và dự kiến sẽ đạt 488,08 tỷ USD vào năm 2029, tăng trưởng với tốc độ CAGR (tỷ lệ tăng trưởng hàng năm kép) là 12,05% trong giai đoạn dự báo (2024 - 2029). |
Bên cạnh đó, việc thu hút nguồn lực đầu tư của khu vực tư nhân cũng có những chuyển biến tích cực. Trong 11 tháng của năm 2024, có 220.800 doanh nghiệp được thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 9,6% so với cùng kỳ.
Mặc dù kinh tế toàn cầu vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong 11 tháng đầu năm 2024, chúng ta đã thu hút được 31,38 tỷ USD vốn FDI; vốn thực hiện ước đạt 21,68 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2023. Đặc biệt, qua thực hiện cơ chế chọn lọc, một lượng lớn vốn FDI đã được thu hút vào lĩnh vực công nghệ cao, các ngành, lĩnh vực mới nổi như chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi năng lượng,... góp phần giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu...
Thúc đẩy tiêu dùng
Năm 2024, Chính phủ tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh và phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”, chương trình OCOP, thương mại điện tử, thanh toán trực tuyến; nâng cao chất lượng các loại dịch vụ, nhất là dịch vụ ăn uống, lưu trú, du lịch nội địa; tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế...
Theo Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành 11 tháng năm 2024 ước đạt 5.822.300 tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Đóng góp lớn vào kết quả này là sự gia tăng lượng khách quốc tế đến Việt Nam (11 tháng đạt hơn 15,8 triệu lượt người, tăng 41% so với cùng kỳ năm 2023).
Mặc dù nhu cầu tiêu dùng trong nước phục hồi chưa cao, nhất là so với thời kỳ trước đại dịch COVID-19, nhưng việc đẩy mạnh tiêu dùng đã đóng góp rất tích cực vào sự tăng trưởng của hoạt động sản xuất và ngành thương mại dịch vụ.
Với lực đẩy từ xuất khẩu, cán cân thương mại năm 2024 tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp, với mức thặng dư khoảng 23 tỷ USD, giúp nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế. |
Xuất khẩu tiếp tục “ghi điểm”
Năm 2024, Việt Nam cơ bản tận dụng, khai thác có hiệu quả các cam kết mở cửa thị trường từ các FTA; xuất khẩu tiếp tục được đẩy mạnh, duy trì mức tăng trưởng khá cao và là một trong những điểm sáng của nền kinh tế.
Theo đó, ước kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 403 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2023 - mức tăng trưởng khá cao so với nhiều nước trong khu vực ASEAN và châu Á. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Nhiều nhóm sản phẩm có giá trị cao đạt tốc độ tăng trưởng vượt trội như máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 71,7 tỷ USD, tăng 25%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 53,9 tỷ USD, tăng 2,9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 52,6 tỷ USD, tăng 22%...
Với kết quả trên, Việt Nam đã vươn lên thứ 23 thế giới và thứ 2 trong ASEAN về kim ngạch thương mại, trở thành đối tác thương mại lớn nhất trong ASEAN của 3 trung tâm kinh tế hàng đầu là Mỹ, EU và Trung Quốc, đem lại nguồn ngoại tệ quan trọng cho nguồn lực tài chính tiền tệ và kinh tế vĩ mô trong nước.
V. THÚC ĐẨY CÁC ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI
Bên cạnh việc làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, Việt Nam đang thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn...
Phát triển kinh tế số
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã đưa ra những định hướng và nhiều chính sách, biện pháp hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế số, bao gồm chiến lược về CMCN 4.0 và các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ, chương trình thúc đẩy phát triển và sử dụng các nền tảng số quốc gia phục vụ chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số... Do đó, kinh tế số đã có sự phát triển nhanh chóng.
Theo báo cáo của Google, tốc độ phát triển kinh tế số Việt Nam nhanh nhất Đông Nam Á trong 3 năm liên tiếp kể từ năm 2022 và cao gấp 3,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP. |
Theo thống kê, Việt Nam hiện có khoảng 30.000 doanh nghiệp phần cứng, phần mềm, nội dung số, các dịch vụ viễn thông và công nghệ thông tin; 10.000 doanh nghiệp công nghệ phần mềm; hơn 50 công ty công nghệ tài chính... Báo cáo e-Conomy SEA 2024 của Google, Temasek và Bain & Company cho biết, năm 2024, quy mô nền kinh tế số Việt Nam đạt 36 tỷ USD, tăng 11 tỷ USD so với năm 2022 (tốc độ tăng trưởng hằng năm đạt 16%); đến năm 2030, dự báo nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt trên 90 tỷ USD.
Trong kinh tế số, thương mại điện tử đạt mức tăng trưởng ấn tượng, từ 15 tỷ USD vào năm 2022 lên 22 tỷ USD vào năm 2024. Lĩnh vực du lịch trực tuyến cũng chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ, từ 3 tỷ USD năm 2022 lên 5 tỷ USD năm 2024.
Việt Nam cũng đang nhanh chóng chuyển sang xã hội không tiền mặt, được thúc đẩy bởi các sáng kiến công cộng và các giải pháp của Chính phủ. Thanh toán kỹ thuật số đạt tổng giá trị giao dịch ấn tượng, tăng từ 105 tỷ USD năm 2022 lên 149 tỷ USD vào năm 2024, dự kiến đạt 300 - 350 tỷ USD vào năm 2030.
Việt Nam có lợi thế tài nguyên thiên nhiên dồi dào như rừng tự nhiên với độ che phủ rừng quốc gia ở mức trên 40%, đem lại nguồn dự trữ carbon lớn. Vị trí địa lý và địa hình đem lại tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo mạnh mẽ, với tiềm năng sản xuất năng lượng Mặt trời khoảng 840GW, năng lượng gió khoảng 350GW, đứng thứ hai khu vực Đông Nam Á... Về xã hội, người tiêu dùng Việt Nam có nhận thức ngày càng cao về kinh tế xanh, với hơn 80% sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho sản phẩm xanh... Nếu tận dụng triệt để được những tiềm năng, thế mạnh của quốc gia, những lợi ích kinh tế - xã hội có thể đạt được cho Việt Nam khi xây dựng thành công nền một nền kinh tế xanh là rất lớn. |
Trong báo cáo mới đây, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, Việt Nam đang xếp thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại thông minh, thứ 5 thế giới về xuất khẩu linh kiện máy tính, thứ 6 thế giới về xuất khẩu thiết bị máy tính, thứ 7 thế giới về gia công phần mềm, thứ 8 thế giới về thiết bị, linh kiện điện tử. Năm 2024, tỷ trọng kinh tế số của Việt Nam chiếm gần 19% GDP và năm 2025 sẽ đạt mục tiêu hơn 20% GDP. Việc phát triển kinh tế số được đánh giá là có khả năng tạo ra những tiềm năng lớn cho sự cải thiện hiệu suất, tạo ra nhiều cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế số tại Việt Nam.
Hướng tới phát triển bền vững
Trong bối cảnh phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trở thành xu hướng phát triển của các nước trên thế giới, Việt Nam cũng sớm xác định rõ hướng đi này để vừa bảo đảm mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế, vừa bảo vệ môi trường và tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu.
Theo đó, Việt Nam đã ban hành các chiến lược, chính sách quan trọng cùng các cam kết mạnh mẽ nhằm xây dựng động lực thúc đẩy tăng trưởng xanh như thông qua Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 (PTR0) tại Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) và trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam...
Từ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của các bộ, ngành..., quá trình phát triển kinh tế xanh đạt được hiệu quả bước đầu. Nhận thức của người dân và doanh nghiệp về vai trò của kinh tế xanh được nâng cao. Tổng vốn đầu tư từ khu vực doanh nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước trong năm 2019 đạt 3,4 tỷ USD cho năng lượng tái tạo, tăng 72% so với năm 2017 và 1,3 tỷ USD cho lĩnh vực môi trường, tăng 35% so với năm 2017. Trong giai đoạn 2010 đến năm 2020, ước tính có khoảng 9 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tập trung vào các ngành năng lượng tái tạo và sản xuất trang thiết bị, máy móc cho những dự án thuộc các lĩnh vực tăng trưởng xanh. Tính đến giữa năm 2024, dư nợ tín dụng xanh đạt gần 650.300 tỷ đồng, trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm trên 45% và nông nghiệp xanh chiếm gần 30%... Nhiều doanh nghiệp cả trong nước và doanh nghiệp FDI đã tiếp cận và áp dụng mô hình nông nghiệp xanh, phát triển công nghiệp xanh, đầu tư vào năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính. Các mô hình này góp phần giảm 12,9% lượng phát thải khí nhà kính; tiêu hao năng lượng tính trên GDP giảm trung bình 1,8%/năm; độ che phủ rừng từng bước gia tăng...
Theo tính toán, hoạt động kinh tế xanh đã tạo ra 6,7 tỷ USD trong năm 2020, bằng 2% GDP và có đà tăng trưởng vững chắc (10 - 13%/năm trong giai đoạn 2018 - 2020); góp phần tạo ra hơn 400.000 việc làm.../.
THÀNH NAM - KHÔI NGUYÊN - TIẾN THẮNG - CÔNG MINH - HOÀNG CÔNG (thực hiện)