Kinh tế xanh
Thực tế cho thấy, trong hơn 10 năm qua, với những hiệu quả tích cực mang lại, phát triển kinh tế xanh đã nổi lên như một ưu tiên chiến lược đối với nhiều chính phủ trên khắp thế giới. Không chỉ được xem là giải pháp thay thế cho mô hình kinh tế chủ yếu dựa vào nhiên liệu hóa thạch và gây ra nhiều tác động tiêu cực tới môi trường, sức khỏe con người, làm trầm trọng thêm bất bình đẳng, khuyến khích lãng phí..., phát triển kinh tế xanh còn được nhận định là xu hướng tất yếu của kinh tế thế giới hiện đại, vừa thỏa mãn nhu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa giải quyết được những thách thức về môi trường, xã hội. Vì lẽ đó, kinh tế xanh đang được kỳ vọng sẽ trở thành con đường ngắn nhất để giúp các quốc gia hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững.
I. SỰ CHUYỂN ĐỔI TẤT YẾU
Nhiều thách thức từ “kinh tế nâu”
Sự phát triển của xã hội loài người trong nhiều thế kỷ đã gắn liền với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Kể từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (cuối thế kỷ XVIII) và đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, nhất là nhiên liệu hóa thạch không ngừng được đẩy mạnh.
Hầu hết chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đều khuyến khích tích lũy nhanh chóng các nguồn vốn vật chất, tài chính và con người, nhưng lại tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên; đồng thời có nhiều chất thải không qua xử lý đáp ứng tiêu chuẩn môi trường...
Trong nhiều thập niên qua, việc chú trọng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP và thu nhập bình quân đầu người dựa trên việc khai thác quá mức các nguồn vốn tự nhiên vô giá đã khiến nguồn vốn này ngày càng khan hiếm ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển.
Quá trình này cũng gây ra những tổn hại to lớn cho môi trường, như ô nhiễm không khí, nguồn nước, đại dương, suy thoái đất, mất rừng, suy giảm đa dạng sinh học, gia tăng phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính khiến biến đổi khí hậu diễn ra trên quy mô toàn cầu.
Điều đó không chỉ tạo ra những tác động bất lợi đến phúc lợi của các thế hệ hiện tại mà còn đặt các thế hệ tương lai trước những rủi ro và thách thức to lớn.
Theo định nghĩa của Liên hợp quốc, kinh tế nâu (brown economy) là nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào các loại nhiên liệu hóa thạch, tăng nguy cơ hủy hoại môi trường và không xem xét đến những tác động phụ như các vấn đề xã hội, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt nguồn tài nguyên. |
Theo một đánh giá của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), trong hơn 1/4 thế kỷ qua, nền kinh tế thế giới đã tăng gấp 4 lần, mang lại lợi ích cho hàng trăm triệu người.
Tuy nhiên, cái giá phải trả cho sự tăng trưởng đó là khoảng 60% hàng hóa và dịch vụ hệ sinh thái chính của thế giới với vai trò hỗ trợ sinh kế của con người đã bị suy thoái hoặc sử dụng không bền vững.
Một ví dụ dễ thấy nhất là hiện có tới 52% trữ lượng các loài cá thương mại đang bị khai thác ở mức “tới ngưỡng”, khoảng 20% bị khai thác quá mức và 8% bị cạn kiệt. Nguồn nước trên toàn cầu cũng đang trở nên khan hiếm và tình trạng căng thẳng về nước được dự báo sẽ gia tăng khi nguồn cung cấp chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu của thế giới trong 20 năm.
Ngành nông nghiệp chứng kiến quá trình tăng năng suất chủ yếu dựa vào việc sử dụng phân bón hóa học, làm giảm chất lượng đất và không thể kiềm chế xu hướng phá rừng ngày càng gia tăng...
Tình trạng này đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, như ngư nghiệp, nông nghiệp, nước ngọt, lâm nghiệp..., vốn là nền tảng cung cấp thực phẩm cho con người và là nguồn sinh kế quan trọng của người nghèo.
Trong khi đó, các đô thị - nơi sinh sống của hơn 50% dân số thế giới và hiện chiếm tới 75% mức tiêu thụ năng lượng, 75% lượng khí thải carbon, những vấn đề như tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm và các dịch vụ kém chất lượng,... đã ảnh hưởng đến năng suất và sức khỏe của tất cả mọi người, đặc biệt là người nghèo ở thành thị.
Trên bình diện chung, trong hơn 20 năm qua, nhân loại đã phải trải qua nhiều cuộc khủng hoảng nghiêm trọng: khủng hoảng về khí hậu, đa dạng sinh học, nhiên liệu, thực phẩm, nước, y tế, tài chính, kinh tế và gây ra những hậu quả thảm khốc đối với con người.
Liên hợp quốc nhận định, biến đổi khí hậu sẽ tác động đáng kể đến tỷ lệ tử vong vào năm 2100. Ô nhiễm không khí hiện là rủi ro sức khỏe môi trường lớn nhất thế giới, ước tính gây ra 8 triệu ca tử vong sớm mỗi năm. |
Chưa hết, cú sốc giá nhiên liệu sau cuộc chiến giữa Nga và Ukraina, những diễn biến phức tạp của giá lương thực và hàng hóa trong và sau đại dịch COVID-19 đều cho thấy những điểm yếu về mặt cấu trúc, cũng như những rủi ro chưa được giải quyết.
Điều đó đặt ra thách thức rất lớn trong việc bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực cho thế giới với dân số 9 tỷ người vào năm 2050... Những vấn đề này sẽ làm trầm trọng thêm các nguy cơ xã hội dai dẳng mà thế giới đang phải đối mặt, như mất việc làm, mất an ninh kinh tế - xã hội và nghèo đói, đồng thời đe dọa sự ổn định xã hội.
Lối thoát mới từ kinh tế xanh
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, trước áp lực của cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1972 - 1973, ý tưởng về mô hình tăng trưởng xanh đã bắt đầu xuất hiện. Thuật ngữ kinh tế xanh lần đầu tiên được giới thiệu trong báo cáo năm 1989 của Chính phủ Anh.
Sau đó, các tác giả đã mở rộng khái niệm này trong 2 báo cáo tiếp theo là “Kế hoạch chi tiết 2: Xanh hóa nền kinh tế thế giới” (năm 1991) và “Kế hoạch chi tiết 3: Đo lường sự phát triển bền vững” (năm 1994).
Tuy nhiên, phải đến năm 2008, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, thuật ngữ này mới được cộng đồng quốc tế thực sự chú ý. Với mục tiêu tăng cường hợp tác quốc tế ứng phó với khủng hoảng tài chính đi đôi với xử lý các vấn đề toàn cầu nhằm hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế thế giới hậu khủng hoảng, cuối năm 2008, UNEP đã phát động “Sáng kiến kinh tế xanh”.
Khái niệm kinh tế xanh thu hút được sự chú ý của quốc tế nhiều hơn nữa vào năm 2010, khi Diễn đàn Môi trường toàn cầu của UNEP công nhận tiềm năng của nó trong việc giải quyết các thách thức toàn cầu.
Năm 2011, tại Báo cáo Kinh tế xanh, UNEP chính thức đưa ra định nghĩa được xem là chính xác và đầy đủ nhất về kinh tế xanh. Theo đó, kinh tế xanh là “nền kinh tế mang lại phúc lợi cho con người và công bằng xã hội, đồng thời giảm đáng kể các rủi ro về môi trường và tình trạng khan hiếm sinh thái”.
Trong khái niệm về kinh tế xanh của UNEP, kinh tế xanh đối lập với kinh tế nâu. Kinh tế xanh không chỉ đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế mà còn quan tâm nhiều tới hạnh phúc của con người, công bằng xã hội và các vấn đề môi trường, sinh thái.
Trong nền kinh tế xanh, sự tăng trưởng về thu nhập, việc làm thông qua việc đầu tư của nhà nước và tư nhân cho nền kinh tế làm giảm thiểu phát thải carbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên, ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ của hệ sinh thái.
Xét theo lĩnh vực, kinh tế xanh bao gồm: năng lượng tái tạo, giao thông phát thải carbon thấp, xây dựng nhà hiệu quả năng lượng, các công nghệ sạch, hệ thống quản lý chất thải tiên tiến, hệ thống cung cấp nước sạch tiên tiến và nông - lâm - ngư nghiệp bền vững...
II. VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA KINH TẾ XANH
Nhiều nghiên cứu thực chứng cho thấy, trong khi bảo vệ được nguồn vốn tự nhiên, việc xanh hóa nền kinh tế vẫn có thể tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế tích cực, tạo nhiều việc làm tử tế và giảm nghèo đói - những thành tố quan trọng của phát triển bền vững.
Khai thác hiệu quả “nguồn vốn” tự nhiên
Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh không chỉ chứng minh giá trị của vốn tự nhiên như một nguồn cung cấp phúc lợi cho con người, nguồn cung cấp lương thực cho người nghèo hay một nguồn việc làm tử tế, mà còn có tác dụng củng cố nguồn vốn tự nhiên này, qua đó mang lại sự phát triển kinh tế bền vững.
Trong mô hình của UNEP về kịch bản đầu tư xanh, riêng việc đầu tư 0,03% GDP toàn cầu từ năm 2011 đến năm 2050 để trả tiền cho chủ đất rừng trong bảo tồn rừng và đầu tư tư nhân vào việc tái trồng rừng có thể nâng giá trị gia tăng trong ngành lâm nghiệp hơn 20%. Điều này cũng có thể thúc đẩy việc làm chính thức trong lĩnh vực lâm nghiệp và làm tăng đáng kể lượng carbon được lưu trữ trong rừng.
Tương tự, phân tích ở cấp độ trang trại cho thấy, các khoản đầu tư vào nông nghiệp xanh sẽ giúp cải thiện chất lượng đất và làm tăng năng suất các loại cây trồng chính toàn cầu khoảng 10% so với các chiến lược đầu tư hiện tại.
Trong khi đó, với kịch bản đầu tư xanh với mức đầu tư 100 - 300 tỷ USD mỗi năm trong giai đoạn 2010 - 2050, UNEP ước tính hiệu quả gia tăng trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và đô thị sẽ giúp giảm 1/5 nhu cầu về nước vào năm 2050. Với ngành đánh bắt thủy sản, việc xanh hóa ngành này có thể mang lại giá trị ước tính gấp khoảng 3 đến 5 lần giá trị đầu tư.
Vai trò trung tâm trong xóa đói, giảm nghèo
Nghèo đói dai dẳng là hình thức bất bình đẳng xã hội dễ thấy nhất, liên quan đến việc tiếp cận không bình đẳng với giáo dục, chăm sóc sức khỏe, khả năng tiếp cận tín dụng, cơ hội thu nhập và quyền sở hữu tài sản an toàn.
Một đặc điểm chính của kinh tế xanh là cung cấp nhiều cơ hội đa dạng để phát triển kinh tế và xóa đói, giảm nghèo mà không làm mất đi hoặc xói mòn tài sản thiên nhiên của một quốc gia. Điều này đặc biệt cần thiết ở các quốc gia thu nhập thấp, nơi hàng hóa và dịch vụ hệ sinh thái là thành phần lớn trong sinh kế của các cộng đồng nông thôn nghèo.
Theo phân tích của UNEP, mục tiêu xóa đói, giảm nghèo có thể được thực hiện hiệu quả thông qua việc gia tăng đầu tư phát triển nông nghiệp xanh, cung cấp nước sạch và dịch vụ vệ sinh cho người nghèo, năng lượng tái tạo và phát triển du lịch...
Tạo việc làm và tăng cường công bằng xã hội
Khi nền kinh tế thế giới suy thoái vào năm 2008 - hệ quả từ cuộc khủng hoảng tài chính cùng những cú sốc giá trước đó, mối lo ngại về tình trạng mất việc làm đã tăng lên. Một số quốc gia như Trung Quốc và Hàn Quốc phản ứng bằng các kế hoạch tập trung vào việc làm để kích thích tài khóa với các thành phần “xanh” đáng kể.
Hiện nay, các quốc gia đang hướng tới nền kinh tế xanh cũng chứng kiến khả năng tạo việc làm thông qua các khoản đầu tư lớn hơn vào các lĩnh vực xanh. Trong kịch bản đầu tư xanh, các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, xây dựng, năng lượng tái tạo, vận tải, quản lý và tái chế chất thải,... sẽ chứng kiến sự tăng trưởng việc làm cao hơn so với các kịch bản kinh doanh thông thường.
Thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng năng lượng tái tạo và công nghệ carbon thấp
Hệ thống năng lượng dựa trên nhiên liệu hóa thạch được xem là gốc rễ của biến đổi khí hậu. Việc tăng nguồn cung cấp năng lượng từ các nguồn tái tạo không chỉ góp phần giải quyết hiệu quả thách thức đặt ra mà còn là giải pháp giúp giảm thiểu những rủi ro khác như tình trạng giá nhiên liệu hóa thạch tăng cao và không ổn định.
Bên cạnh đó, năng lượng tái tạo cũng mang đến những cơ hội kinh tế lớn. Nghiên cứu của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) đã chứng minh rằng, một gói đầu tư đồng bộ trong khoảng 1 - 2% GDP toàn cầu (tương đương với mức trợ cấp nhiên liệu hóa thạch hiện nay) có thể chuyển nền kinh tế toàn cầu sang con đường tăng trưởng carbon thấp.
Việc thay thế đầu tư vào các nguồn năng lượng thải nhiều carbon bằng đầu tư vào năng lượng sạch sẽ giúp sản lượng năng lượng tái tạo tăng gấp đôi và đảm nhận hơn 25% tổng nguồn cung năng lượng toàn cầu.
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và năng lượng
Có rất nhiều bằng chứng cho thấy nền kinh tế toàn cầu vẫn còn nhiều cơ hội chưa được khai thác để tạo ra của cải bằng cách sử dụng ít tài nguyên vật liệu và năng lượng hơn. Xanh hóa ngành sản xuất có nghĩa là kéo dài tuổi thọ hữu ích của hàng hóa sản xuất bằng cách nhấn mạnh hơn vào việc thiết kế lại, tái sản xuất và tái chế.
Thực tế cho thấy, các quy trình dựa trên việc tái chế các sản phẩm và bộ phận đã qua sử dụng thông qua các hệ thống thu hồi hiện tiết kiệm được khoảng 10,7 triệu thùng dầu mỗi năm.
Hoạt động tái chế cũng hỗ trợ việc sử dụng các sản phẩm phụ của quá trình sản xuất, đồng thời cung cấp những giải pháp thay thế cho các đầu vào trong sản xuất. Ví dụ, việc tái chế vật liệu như nhôm giúp giảm tới 95% nhu cầu năng lượng cho sản xuất.
Ở cấp độ rộng hơn, sự phát triển của các khu công nghiệp sinh thái tạo cơ sở cho việc triển khai hiệu quả sản xuất theo chu trình khép kín ở cấp độ cao hơn. Kết quả mô hình hóa cho thấy, các khoản đầu tư xanh vào nâng cao hiệu quả năng lượng có thể giảm gần 50% mức tiêu thụ năng lượng trong công nghiệp so với hoạt động kinh doanh thông thường.
Trên phạm vi toàn cầu, theo kịch bản đầu tư xanh, tỷ lệ tái chế vào năm 2050 sẽ cao hơn 3 lần so với mức dự kiến theo phương án kinh doanh thông thường và lượng chất thải đưa đến bãi chôn lấp sẽ giảm hơn 85%.
Cuộc sống đô thị bền vững hơn
Quá trình đô thị hóa nhanh chóng đang gây áp lực lên nguồn cung cấp nước sạch, hệ thống xử lý nước thải và sức khỏe cộng đồng. Trong bối cảnh này, các thành phố có những cơ hội độc đáo để tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và năng suất, giảm lượng khí thải trong các tòa nhà cũng như chất thải và thúc đẩy khả năng tiếp cận các dịch vụ chính thông qua những phương thức vận tải sáng tạo, ít carbon.
Tại châu Âu, nhiều phân tích chỉ ra rằng, đầu tư vào giao thông công cộng mang lại lợi ích kinh tế ở cấp khu vực cao hơn gấp đôi so với chi phí. Tại châu Phi cận Sahara (SSA), việc giảm hàm lượng lưu huỳnh trong nhiên liệu sử dụng cho giao thông có thể tiết kiệm tới 980 triệu USD mỗi năm cho chi phí y tế và chi phí kinh tế liên quan.
Tăng trưởng nhanh hơn và bền vững hơn
Theo UNEP, nếu không tính đến những tác động tiêu cực tiềm ẩn của biến đổi khí hậu hoặc mất mát lớn các dịch vụ hệ sinh thái, tăng trưởng kinh tế toàn cầu theo mô hình kinh tế nâu luôn bị hạn chế bởi tình trạng thiếu hụt năng lượng và khan hiếm tài nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, với kịch bản đầu tư xanh chiếm 2% GDP toàn cầu, ngay cả với các giả định thận trọng, việc đầu tư này vẫn mang lại mức tăng trưởng dài hạn trong giai đoạn 2011 - 2050; đồng thời tránh được những rủi ro đáng kể như tác động của biến đổi khí hậu, tình trạng thiếu nước trầm trọng và mất các dịch vụ hệ sinh thái cũng như làm tăng trữ lượng tài nguyên tái tạo góp phần tạo nên sự giàu có toàn cầu.
III. NHỮNG THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP
Một số thách thức chính
Thách thức về tài chính
Một trong những thách thức chính trong việc phát triển kinh tế xanh là về tài chính. Việc chuyển đổi từ ngành truyền thống sang ngành kinh tế xanh thường đòi hỏi đầu tư đáng kể vào công nghệ và cơ sở hạ tầng mới.
Đối với các nước đang phát triển, đây có thể là một trở ngại lớn. Hơn nữa, sự chuyển đổi này còn có thể dẫn đến mất việc làm trong thời gian ngắn đối với các ngành công nghiệp truyền thống, tạo ra căng thẳng kinh tế.
Rào cản chính trị và chính sách
Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh có thể gặp nhiều thách thức do sự phản kháng từ các ngành công nghiệp truyền thống vốn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch. Những ngành này thường có ảnh hưởng chính trị đáng kể, có thể làm chậm quá trình áp dụng các chính sách xanh.
Ngoài ra, việc thiếu các chính sách nhất quán giữa các khu vực có thể cản trở tiến trình toàn cầu hướng tới nền kinh tế xanh.
Rào cản công nghệ
Mặc dù công nghệ đã có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn cần có sự phát triển đáng kể trong các lĩnh vực như lưu trữ và sử dụng năng lượng hiệu quả. Chi phí cao vào giai đoạn đầu của một số công nghệ xanh có thể hạn chế việc áp dụng chúng, đặc biệt là trong các lĩnh vực mà nhiên liệu hóa thạch tiếp tục có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Rào cản về nhận thức
Khái niệm kinh tế xanh cũng vấp phải những chỉ trích và hạn chế. Chẳng hạn, một số người cho rằng kinh tế xanh không giải quyết được vấn đề cơ bản của tình trạng tiêu dùng quá mức và chỉ đơn giản là “làm sạch” tăng trưởng kinh tế mà không tạo ra những thay đổi đáng kể đối với mô hình tiêu dùng. Điều đó có thể làm giảm sự ủng hộ cho việc phát triển kinh tế xanh.
Những giải pháp hiệu quả
Để giải quyết những vấn đề nêu trên; đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, theo UNEP, các quốc gia cần có những lựa chọn chính sách cụ thể và hành động sớm. Những giải pháp này có thể bao gồm:
Thiết lập khung pháp lý rõ ràng
Một khung pháp lý được thiết kế tốt như tạo ra các tiêu chuẩn tối thiểu hoặc cấm hoàn toàn một số hoạt động nhất định có thể điều chỉnh các hành vi không bền vững và có hại nhất. Khung pháp lý đầy đủ đó cũng sẽ giảm thiểu rủi ro về mặt pháp lý và kinh doanh, đồng thời tăng cường sự tin tưởng của các nhà đầu tư và thị trường.
Trong khi các công cụ dựa trên thị trường được xem là có hiệu quả, trong một số trường hợp, các biện pháp chỉ huy và kiểm soát có thể mang lại hiệu quả với chi phí thấp nhất. Ví dụ, trong ngắn hạn, có thể dễ dàng thiết lập các tiêu chuẩn hiệu quả năng lượng mới và loại bỏ các trở ngại trong quá trình cấp phép quy hoạch cho các dự án năng lượng tái tạo.
Ưu tiên đầu tư và chi tiêu công vào các lĩnh vực thúc đẩy xanh hóa các ngành kinh tế
Các khoản trợ cấp xanh thông qua trợ giá, ưu đãi thuế, trợ cấp trực tiếp và hỗ trợ cho vay, có thể được sử dụng để tạo động lực cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Ví dụ, một số thành phố ở Ấn Độ đã thiết lập khoản hoàn thuế tài sản cho người sử dụng máy nước nóng năng lượng Mặt trời.
Cùng với việc ưu tiên đầu tư và chi tiêu công vào các lĩnh vực thúc đẩy xanh hóa các ngành kinh tế, UNEP cho rằng, cần hạn chế chi tiêu của chính phủ ở những khu vực làm cạn kiệt vốn tự nhiên.
Sử dụng thuế và công cụ thị trường để thúc đẩy đầu tư xanh
Thuế thường mang lại các động lực rõ ràng để giảm phát thải, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả hơn và kích thích đổi mới sáng tạo. Ví dụ, Singapore đã giới thiệu chương trình thu phí đường bộ đầu tiên trên thế giới vào những năm 80 của thế kỷ XX và đang đi đầu trong việc sử dụng các công cụ định giá để giải quyết những vấn đề về chất thải và nước.
Các công cụ dựa trên thị trường, chẳng hạn như giấy phép có thể giao dịch cũng được đánh giá là công cụ mạnh mẽ để giải quyết một loạt vấn đề về môi trường...
Đầu tư vào xây dựng năng lực, giáo dục và đào tạo
Việc đầu tư vào xây dựng năng lực sẽ giúp tăng cường năng lực của các cơ quan chính phủ trong việc phân tích các thách thức, xác định những cơ hội, ưu tiên các biện pháp can thiệp, huy động nguồn lực, triển khai các chính sách và đánh giá tiến độ.
Bên cạnh đó, cần có các chương trình đào tạo và nâng cao kỹ năng để chuẩn bị cho lực lượng lao động chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.
Tăng cường hợp tác quốc tế
Các thỏa thuận môi trường quốc tế có thể tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Chẳng hạn, các thỏa thuận môi trường đa phương (MEA) như Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) là thỏa thuận có tác động lớn nhất đến quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh của nhiều quốc gia.
Ngoài ra, vai trò tích cực của các chính phủ trong những tiến trình quốc tế cũng có thể thúc đẩy sự gắn kết và hợp tác trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.
Tài trợ cho quá trình chuyển đổi xanh
Mặc dù quy mô tài trợ cần thiết cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh là rất lớn, nhưng có thể huy động được thông qua chính sách công thông minh và các cơ chế tài trợ sáng tạo.
Sự phát triển nhanh chóng của thị trường vốn cũng như các công cụ thị trường mới nổi như tài chính carbon,... đang mở ra không gian cho hoạt động tài trợ quy mô lớn để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh toàn cầu.
IV. VIỆT NAM: SẴN SÀNG CHO CHUYỂN ĐỔI XANH
Định hướng lớn và những kết quả bước đầu
Một số định hướng lớn
Ở Việt Nam, mặc dù việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong hoạt động kinh tế, xã hội đã được đặt ra từ khá sớm, nhưng phải đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) của Đảng, khái niệm “kinh tế xanh” mới được đề cập.
Theo đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011 - 2020, Đảng đã định hướng rõ việc “Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường”.
Cụ thể hóa yêu cầu này, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2012 đã xác định rõ 3 nhiệm vụ chiến lược trong phát triển kinh tế xanh gắn với tăng trưởng xanh, đó là: giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; xanh hóa sản xuất; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu từng bước thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên và năng lượng...
Cùng với đó, Quốc hội đã ban hành mới, bổ sung, sửa đổi một số luật liên quan đến tăng trưởng xanh như: Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Luật Phòng, chống thiên tai; Luật Bảo vệ môi trường; Luật Khí tượng thủy văn. Một số văn bản pháp quy mới cũng được xây dựng nhằm thúc đẩy thực hiện các hoạt động liên quan tới tăng trưởng...
Để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong bối cảnh mới, năm 2021, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”, trong đó đề ra các mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn; xây dựng lối sống xanh; nâng cao chất lượng cuộc sống và khả năng chống chịu của người dân với biến đổi khí hậu, bảo đảm bình đẳng về điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển...
Ở tầm chiến lược, năm 2013, Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, với nhiệm vụ trọng tâm là thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) chủ trương “phát triển nhanh và bền vững”; đồng thời khẳng định: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. |
Kết quả tích cực và một số tồn tại, hạn chế
Sau hơn 10 năm thực hiện những chủ trương, chính sách trên, nhận thức của xã hội về vai trò, ý nghĩa của tăng trưởng xanh đã được nâng lên rõ rệt. Một số mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu chính của Chiến lược tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 đạt được kết quả khả quan như: lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng giảm 12,9% so với phương án phát triển bình thường; tiêu hao năng lượng tính trên GDP giảm bình quân 1,8%/năm; tỷ lệ doanh nghiệp công nghiệp có nhận thức về sản xuất sạch hơn đã tăng từ 28% năm 2010 lên 46,9% năm 2020; tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 42%...
Tính đến hết năm 2023, đã có 46 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và thực hiện kế hoạch hành động tăng trưởng xanh cấp tỉnh, thành phố. Các hoạt động kinh tế xanh đã giúp tạo hơn 7,2 tỷ USD vào năm 2021 (chiếm khoảng 2% tổng GDP). Cũng trong năm 2021, nền kinh tế xanh đem lại hơn 500.000 việc làm xanh...
Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam cũng còn một số vấn đề tồn tại. Nhận thức về kinh tế xanh còn hạn chế. Nguồn lực để triển khai các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xanh và bền vững vẫn chưa được định rõ, trong đó, các dự án liên quan đến phát triển kinh tế xanh còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế. Việc thu hút vốn đầu tư vào các dự án xanh cũng gặp nhiều khó khăn...
Những giải pháp cho thời gian tới
Để đẩy mạnh quá trình chuyển đổi xanh nhằm phát triển kinh tế xanh, hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, các chuyên gia cho rằng, thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý cho toàn bộ các lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến quá trình tăng trưởng xanh theo hướng phối hợp liên vùng, liên ngành và tích hợp các mục tiêu, giải pháp tăng trưởng xanh để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tối ưu hóa nguồn lực.
Đồng thời, cần đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế xanh đối với hoạt động sản xuất và tiêu dùng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong giám sát, đánh giá thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và mức độ xanh hóa của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, cần tăng cường truyền thông nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và cộng đồng về thực hiện tăng trưởng xanh, góp phần xây dựng đất nước phát triển bền vững.
Trên thực tế, thực hiện tăng trưởng xanh đòi hỏi nguồn lực rất lớn. Do vậy, cùng với việc đầu tư từ ngân sách nhà nước, cần có cơ chế huy động nguồn đầu tư tư nhân, nhất là nguồn vốn của các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, cần áp dụng các tiêu chí lựa chọn dự án đầu tư chặt chẽ, bảo đảm hiệu quả kinh tế và tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân ở tất cả các thành phần kinh tế về những vấn đề mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp, quản trị kinh doanh hiện đại, kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn, xu hướng kinh doanh mới...; đồng thời tập trung đầu tư phát triển khoa học công nghệ, nghiên cứu các lĩnh vực, ngành nghề thiết yếu cho kinh tế xanh; khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi sang sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường.../.
Duy Anh - Thành Nam - Khôi Nguyên - Tiến Thắng - Công Minh (thực hiện)