Drone khuếch đại sức mạnh chiến đấu của Hải quân Mỹ?
La Tuấn
Kể từ khi trở lại Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã coi việc triển khai “các bầy đàn phương tiện không người lái” (drone swarms) là ưu tiên quân sự hàng đầu. “Dự luật To và Đẹp” (One Big Beautiful Bill) được Quốc hội Mỹ thông qua tháng 7-2025 đã phân bổ gần 5 tỷ USD cho ngân sách chi trả hệ thống tự động trên biển. Tuy nhiên, cho đến nay, cách tiếp cận của Hải quân Mỹ vẫn vấp phải sự hoài nghi dưới thời chính quyền mới.
Cần bao nhiêu thiết bị bay không người lái (drone) để thay thế một tàu khu trục? Đó chính là vấn đề mà Lực lượng đặc nhiệm 66 - một nhánh của Hạm đội 6, Hải quân Mỹ đóng quân tại Địa Trung Hải - đang tìm hiểu. Theo Chuẩn đô đốc Micheal Mattis - người giám sát Lực lượng đặc nhiệm 66 - lực lượng này đang thử nghiệm khái niệm nghe có vẻ hậu hiện đại về một “tàu khu trục phi tập trung” (deconstructed destroyer).
Chuẩn đô đốc Micheal Mattis đưa ra giả thuyết rằng, một đội tàu gồm 20 USV thuộc “các loại khác nhau, đa dạng” có thể thực hiện các sứ mệnh tương tự như một tàu khu trục tên lửa dẫn đường (DDG) lớp Arleigh Burke. Theo ông Mattis, điều này rất hiệu quả, thậm chí “chúng tôi nghĩ rằng có thể thực hiện điều đó với chi phí chỉ bằng 1/30 chi phí của một tàu DDG”.
Theo Cơ quan nghiên cứu Quốc hội Mỹ, mỗi tàu lớp Burke có giá khoảng 2,5 tỷ USD. Còn theo các tính toán, lực lượng hải quân mặt nước có thể thu về giá trị tương đương với tàu DDG từ một đội tàu không người lái với tổng chi phí khoảng 83 triệu USD.
Liệu drone hải quân có thể thực sự “thay thế” tàu khu trục?
Cố Đại úy Wayne Hughes - bậc thầy về chiến thuật hạm đội của Hải quân Mỹ - từng cho biết, những yếu tố chính quyết định khả năng ra quyết định chiến thuật trên chiến trường là tầm bắn của vũ khí, khả năng trinh sát phát hiện lực lượng đối phương, đồng thời làm giảm khả năng bị phát hiện. Hàm ý trong đó là năng lực chỉ huy và kiểm soát hiệu quả các lực lượng tham gia trinh sát, phản trinh sát và sử dụng vũ khí tấn công kẻ thù. Khó có thể triển khai các chiến thuật nếu không có chức năng điều phối này.
Để thực sự thay thế tàu DDG, một đội tàu drone sẽ phải có những đặc tính sau: động cơ đẩy có thể đưa đội tàu di chuyển trên mặt nước với tốc độ trên 30 hải lý/giờ; tầm hoạt động không tiếp nhiên liệu vượt quá 4.000 hải lý ở tốc độ 20 hải lý/giờ; khả năng tiếp nhiên liệu và tái trang bị khi đang di chuyển; hệ thống thông tin liên lạc mạnh mẽ để truyền tin và phối hợp tác chiến với tàu có người lái, máy bay và lực lượng liên quân; hệ thống tác chiến điện tử có năng lực phòng thủ lẫn tấn công; năng lực hàng không tương đương 2 trực thăng SH-60; một hệ thống tương đương hệ thống tác chiến Aegis, kết hợp cảm biến, máy tính và điều khiển hỏa lực để phát hiện, theo dõi và đánh chặn máy bay, tên lửa và tàu chiến ở tầm xa; hệ thống sonar và xử lý dữ liệu để “săn” tàu ngầm; hỏa lực tương đương 96 ống phóng thẳng đứng, chứa nhiều loại đạn dược để thực hiện các cuộc tác chiến trên mặt nước, phòng không và chống tàu ngầm; các hệ thống phòng thủ tầm ngắn chống tên lửa và tấn công trên không; một đối trọng với pháo binh chủ lực 5 inch cho các nhiệm vụ tác chiến trên mặt nước, trên không và yểm trợ hỏa lực.
Đó là những yêu cầu rất lớn đối với ngay cả 20 chiếc USV, và khó có thể hình dung cách triển khai các hoạt động tác chiến.
Những lợi ích
Nhận thấy tác động to lớn của drone biển trong cuộc xung đột toàn cầu hiện nay, các lãnh đạo quân sự Mỹ nhiều lần khẳng định họ cần các những “đàn” drone trên không và drone trên biển. Do đó, Hải quân Mỹ đang nhắm tới việc xây dựng một hạm đội drone biển, có thể di chuyển theo nhóm và không cần nhận lệnh trực tiếp từ con người. Đây là một tham vọng lớn hơn, với chi phí cao hơn nhiều và có thể lên tới vài triệu USD mỗi chiếc drone cao tốc.
Lợi ích tiềm tàng của cách tiếp cận này là vô cùng lớn, ngay cả khi chưa xem xét đến yếu tố chi phí. Trước hết, một cấu trúc hạm đội “phân tán” hoặc rải rác cuối cùng cũng có thể được áp dụng trên biển. Các “ông lớn” trong hải quân đã nói về “sát thương phân tán” và “chiến dịch hàng hải phân tán” hơn 1 thập niên qua. Dường như công nghệ quân sự đang bắt kịp những ý tưởng hiện hành về thiết kế và hoạt động của hạm đội.
Logic đứng sau các chiến dịch phân tán rất đơn giản và thuyết phục. Thiệt hại trong chiến đấu đối với một tàu khu trục hoặc tàu chiến mặt nước chủ lực khác có thể làm tê liệt hoặc đánh chìm con tàu đó, có khả năng giảm 100% các năng lực đã được liệt kê ở trên khỏi sức mạnh chiến đấu tổng thể của hạm đội. Kẻ thù sẽ giáng một đòn mạnh vào triển vọng chiến đấu của hạm đội.
Nói một cách đơn giản, việc tiêu diệt một trong đội 20 drone sẽ chỉ làm giảm 5% khả năng của một tàu khu trục phi tập trung, cho phép 95% còn lại tiếp tục chiến đấu. Khả năng phân tán hạn chế thiệt hại từ một đòn tấn công của kẻ thù xuống còn một phần nhỏ sức mạnh tổng thể của hạm đội. Toàn bộ lực lượng vẫn tiếp tục chiến đấu, có khả năng cho tới khi giành được chiến thắng.
Drone không phải là giải pháp hữu hiệu đối với Hải quân Mỹ?
Theo ông Bryan Clark - chuyên gia về chiến tranh tự động tại Viện Hudson - những thất bại trong thử nghiệm gần đây cho thấy những thách thức mà Hải quân Mỹ đang phải đối mặt khi nỗ lực triển khai công nghệ còn non trẻ này. Hải quân sẽ cần tinh chỉnh “chiến thuật khi hiểu rõ hơn các hệ thống, về việc chúng có thể và không thể làm gì”.
Bên cạnh đó, giới phân tích đã nói nhiều về tổ hợp đóng tàu đang gặp khó khăn của Mỹ, và điều đó hoàn toàn có cơ sở. Hiện tại, ngành công nghiệp đang cung cấp khoảng 2 thân tàu khu trục tên lửa dẫn đường mỗi năm, với khả năng mở rộng hạn chế. Đó là một tốc độ chậm chạp.
Trên thực tế, các tàu chiến mặt nước đang “nghỉ hưu” nhanh hơn tốc độ được thay thế. Tuy nhiên, hàng chục xưởng đóng tàu có khả năng sản xuất các tàu nhỏ hơn, trong phạm vi 33 - 100m, nằm rải rác dọc bờ biển Mỹ. Đó chính là nơi chế tạo USV. Nếu Hải quân Mỹ có thể hiện thực hóa cách tiếp cận phi tập trung, có vẻ tổ hợp đóng tàu có thể nhanh chóng đưa các đội tàu USV ra khơi trong thời gian ngắn hơn so với việc tăng cường các tàu chiến lớn.
Tất nhiên là còn có một vài nhược điểm tiềm ẩn đối với cách tiếp cận phi tập trung và quy trình thử nghiệm cần cân nhắc. Thứ nhất, với một nhóm các nhà cung cấp USV, không khó để hình dung ra những vấn đề về năng lực tương tác giữa các USV từ các nhà sản xuất khác nhau cũng như giữa USV với các phương tiện có người lái truyền thống. Tính không đồng nhất là một vấn đề có thể lường trước và cần được quản lý.
Thứ hai, và quan trọng hơn, một tàu khu trục phi tập trung sẽ là một hệ thống trong các hệ thống mà các hoạt động của nó có lẽ sẽ được điều phối thông qua phổ điện từ. Theo khái niệm “chiến tranh phá hủy hệ thống” (systems-destruction warfare), nhiều cường quốc đã định hướng toàn bộ cách tiếp cận chiến tranh của họ vào việc phá vỡ và tách rời các hệ thống của đối phương trước khi phá hủy chúng từng phần.
Một tàu khu trục của Hải quân Mỹ, do con người vận hành, rất khó bị phá hủy theo cách này. Nhưng một đội tàu drone được kết nối qua vệ tinh hoặc radio có thể bị phá vỡ theo cách tương tự. Các nhà thiết kế hạm đội cần phải dự đoán cách kẻ thù tiềm tàng dự định tấn công những lực lượng phân tán và bảo vệ chúng ngay từ đầu.
Để tăng tốc chương trình phát triển drone, Lầu Năm Góc đã khởi động chương trình Replicator trị giá 1 tỷ USD vào năm 2023. Thông qua đó, các lực lượng như Hải quân Mỹ và Đơn vị Đổi mới quốc phòng (DIU) - cơ quan của Lầu Năm Góc phụ trách mua công nghệ phục vụ các cuộc thử nghiệm - dự kiến mua hàng nghìn drone trên không, drone biển cùng với phần mềm điều khiển đi kèm.
Theo hồ sơ mua sắm liên bang, Hải quân Mỹ đã cam kết chi ít nhất 160 triệu USD cho BlackSea - doanh nghiệp đang sản xuất hàng chục tàu trinh sát tự động toàn cầu (GARC) mỗi tháng. Công ty Saronic cũng đang chế tạo loại drone biển cạnh tranh mang tên Corsair, nhưng tới nay vẫn chưa công bố bất kỳ hợp đồng lớn nào. Hồ sơ mua sắm công liên bang cho thấy, công ty đã thu về ít nhất 20 triệu USD từ các thỏa thuận chế tạo nguyên mẫu.
Quyền Tham mưu trưởng Hải quân Jim Kilby cho hay: “những hệ thống này sẽ đóng vai trò then chốt trong hải chiến tương lai bằng cách mở rộng tầm hoạt động, nâng cao năng lực nhận thức tình huống và gia tăng hiệu quả tác chiến của hạm đội”.
Có thể nói, việc mở rộng sử dụng USV là một thử nghiệm đầy hứa hẹn, có thể cải thiện tình trạng yếu kém về cơ cấu lực lượng của Hải quân Mỹ, đồng thời nhanh chóng tăng cường sức mạnh chiến đấu của các hạm đội Mỹ./.
Các bài cũ hơn
Vấn đề đối ngoại và quốc phòng trong thực thi quản trị địa phương
(04/10/2025 17:47:30)
Tỉnh Phú Thọ: Bảo đảm chính quyền 2 cấp vận hành ổn định, nền nếp
(04/10/2025 17:28:19)
Trí tuệ nhân tạo trong quản lý nhà nước: Hành trình nhiều cơ hội, không ít thách thức
(04/10/2025 17:30:29)
Quản trị chính quyền địa phương điện tử ở Hàn Quốc: Một số kinh nghiệm cho Việt Nam
(04/10/2025 17:45:52)
“Ngôi sao” quy tụ năng lực sáng tạo cho địa phương bứt phá
(04/10/2025 17:44:26)
Chiến lược quản trị đô thị trong “cuộc chiến” thu hút nhân tài
(04/10/2025 17:42:22)