31/05/2025 | 05:30 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Việt Nam: Nỗ lực tạo đột phá trong nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo

Thảo Nguyên
Việt Nam: Nỗ lực tạo đột phá trong nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo Trưởng Ban kinh tế Trung ương, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang tham quan gian trưng bày tại Ngày hội trí tuệ nhân tạo Việt Nam - AI4VN 2024, ngày 23-8-2024_Ảnh: TTXVN
Với chiến lược đẩy mạnh hội nhập và đổi mới sáng tạo, Việt Nam đã sớm quan tâm tới việc phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), tạo nền tảng cho việc hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển AI.

Một số định hướng lớn

Sớm nắm bắt được xu hướng phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, năm 2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23/NQ-TW về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó xác định “giai đoạn 2030 - 2045, tập trung ưu tiên phát triển các thế hệ mới của ngành công nghiệp công nghệ thông tin và viễn thông; phổ cập công nghệ kỹ thuật số, tự động hóa...”. 

Năm 2019, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết đã lần đầu tiên đề cập đến khái niệm “trí tuệ nhân tạo” và xác định đây là một trong những lĩnh vực cần có chính sách ưu tiên phát triển.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) thông qua, xác định: phát triển công nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 4G và sau 5G, AI,... để chuyển đổi, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. Đặc biệt là “tập trung phát triển công nghệ ưu tiên có khả năng ứng dụng cao”, trong đó có công nghệ AI.

Ngày 17-4-2020, Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW, trong đó giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì triển khai một số chương trình nghiên cứu trọng điểm quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tập trung phát triển các công nghệ ưu tiên, có tác động tan tỏa đến các ngành, lĩnh vực khác như AI và tự động hóa, cơ điện tử, công nghệ mới trong lĩnh vực năng lượng...

Đặc biệt, ngày 26-1-2021, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 127/QĐ-TTg ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI đến năm 2030. Chiến lược xác định cần tập trung nguồn lực để tạo ra và phát triển các sản phẩm AI, dịch vụ AI quan trọng mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh; đầu tư có trọng điểm ứng dụng AI trong một số lĩnh vực liên quan tới quốc phòng an ninh, quản lý tài nguyên, môi trường và dịch vụ cho người dân; phát triển mạnh các doanh nghiệp ứng dụng AI, doanh nghiệp khởi nghiệp về AI... 

Để thực hiện các mục tiêu đặt ra, Chiến lược nêu rõ những định hướng lớn trong xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hành lang pháp lý liên quan đến AI; xây dựng hạ tầng dữ liệu và tính toán cho nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI; phát triển hệ sinh thái AI; thúc đẩy ứng dụng AI và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Chiến lược cũng giao các bộ, ngành chức năng thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể...

“Điểm sáng” về trí tuệ nhân tạo

Thực hiện các định hướng của Đảng và Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI đến năm 2030, thời gian qua, các bộ, ngành liên quan đã tích cực vào cuộc, từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI. Ngày 2-2-2024, Chính phủ phê duyệt Chiến lược về dữ liệu quốc gia - một trong những nền tảng quan trọng cho việc phát triển AI tại Việt Nam.

Trên cơ sở đó, nhiều nhà khoa học trong nước đã tập trung vào việc nghiên cứu AI và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp Việt Nam như Viettel, FPT, CMC, VNPT, Vingroup,... nhanh chóng nắm bắt xu hướng phát triển thị trường, tăng cường đầu tư, nắm bắt những tiến bộ của công nghệ AI, từng bước làm chủ công nghệ AI để triển khai nghiên cứu, phát triển, cung cấp các sản phẩm AI đáp ứng nhu cầu thị trường. 

Nhiều ứng dụng AI trong phân tích dữ liệu khách hàng, chăm sóc và phát hiện gian lận đã được các ngân hàng lớn sử dụng; các phần mềm hỗ trợ chẩn đoán hình ảnh y khoa, dự báo bệnh lý, gợi ý phác đồ điều trị bằng AI cũng được ứng dụng tại một số cơ sở y tế; không ít nền tảng học tập đã tích hợp AI để cá nhân hóa lộ trình học, hỗ trợ học sinh ôn luyện, đánh giá năng lực và đề xuất nội dung học phù hợp..., hay một số dự án AI hỗ trợ nông dân dự báo thời tiết, dịch bệnh đã được triển khai, bước đầu mang lại hiệu quả tích cực...

Báo cáo “Chỉ số sẵn sàng về AI của chính phủ” 2024 cũng nhấn mạnh việc Việt Nam đã hợp tác với NVIDIA để tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D). “Trung tâm này sẽ cung cấp cho các doanh nghiệp và nhà nghiên cứu địa phương cơ sở hạ tầng để phát triển các ứng dụng AI và đẩy nhanh quá trình áp dụng”, báo cáo nêu rõ.

Theo nhận định của công ty tư vấn toàn cầu McKinsey, AI có thể đóng góp thêm 12% GDP cho Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2030. Với hệ sinh thái AI ngày càng phát triển, Việt Nam cũng có ngày càng nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực AI. Việc đào tạo lực lượng lao động trong lĩnh vực AI có bước phát triển nhanh, từng bước tiếp cận với trình độ của thế giới.

Những kết quả Việt Nam đạt được trong lĩnh vực này đã được các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Trong báo cáo “Chỉ số sẵn sàng về AI của chính phủ” năm 2024 do tổ chức Oxford Insights kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu phát triển quốc tế của Canada thực hiện, Việt Nam đứng thứ 51 trong 188 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới được đánh giá xếp hạng, tăng 4 bậc so với năm 2022. 

Điểm số của Việt Nam (61,42 điểm), không chỉ cao hơn so với điểm số trung bình của khu vực Đông Á (57,95 điểm), mà còn cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu (47,59 điểm).

Đặc biệt, dù “đi sau” về phát triển công nghệ nhưng Việt Nam đã trở thành quốc gia tiên phong về quản trị AI khi đã xây dựng và ban hành bộ quy tắc về nghiên cứu, phát triển các hệ thống AI có trách nhiệm (theo Quyết định số 1290/QĐ-BKHCN, ngày 11-6-2024). 

Bộ quy tắc này đã nêu rõ 9 nguyên tắc, đó là tinh thần hợp tác, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; tính minh bạch; khả năng kiểm soát; nguyên tắc an toàn; nguyên tắc bảo mật; quyền riêng tư; tôn trọng quyền và phẩm giá con người; hỗ trợ người dùng; trách nhiệm giải trình. Đây là một trong những nền tảng quan trọng cho sự phát triển AI có trách nhiệm và đáng tin cậy tại Việt Nam, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế...

Tạo bước đột phá trong kỷ nguyên mới

Ngày 22-12-2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. 

Cùng với việc xác định AI là một trong những công nghệ chiến lược, công nghệ số cần tập trung, ưu tiên phát triển, Nghị quyết đề ra các mục tiêu cụ thể như: đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển AI; hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu; đồng thời thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu...

Nghị quyết đề ra 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia nói chung và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển AI nói riêng. 

Trong đó, về hoàn thiện hệ thống hạ tầng, bên cạnh việc ban hành Chương trình phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược; Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược, sẽ tập trung hình thành hạ tầng lưu trữ, tính toán đạt tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn xanh; chú trọng phát triển hạ tầng năng lượng; phát triển hệ thống các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia.

Cùng với đó, có cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đầu tư, xây dựng trung tâm dữ liệu; thu hút doanh nghiệp nước ngoài đặt trung tâm dữ liệu tại Việt Nam. Sớm hoàn thành và phát huy hiệu quả Trung tâm Dữ liệu quốc gia; đầu tư xây dựng các trung tâm dữ liệu vùng. 

Xây dựng, phát huy hiệu quả dữ liệu quốc gia, dữ liệu của bộ, ngành, địa phương bảo đảm liên thông, tích hợp, chia sẻ. Xây dựng các cơ sở dữ liệu lớn có chủ quyền của Việt Nam. Hình thành ngành công nghiệp dữ liệu lớn của Việt Nam. Phát triển mạnh mẽ ứng dụng AI dựa trên dữ liệu lớn đối với các ngành, lĩnh vực quan trọng...

Để giải bài toán nguồn nhân lực, Nghị quyết cũng nêu rõ các nhiệm vụ như xây dựng cơ chế đặc biệt về thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ AI và đào tạo nguồn nhân lực. 

Xây dựng một số trường, trung tâm đào tạo tiên tiến chuyên sâu về AI. Phát triển đội ngũ giảng viên; đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, hiện đại hóa phương thức đào tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhất là AI.

Ngoài ra, có cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư R&D. Tập trung đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với các quốc gia có trình độ khoa học và công nghệ, chuyển đổi số phát triển, nhất là các lĩnh như AI. 

Có chính sách mua, chuyển giao công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam. Chủ động, tích cực tham gia xây dựng các quy tắc, tiêu chuẩn quốc tế về các công nghệ mới bảo đảm an toàn và cùng có lợi...

Có thể nói, đây là những định hướng rất quan trọng để tạo bước đột phá cho hoạt động nghiên cứu và phát triển AI tại Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới./.