Giải mã lịch sử nhiều thế kỷ phục quốc của người Do Thái - Kỳ 1: Đan xen các dự án khôi phục hoặc hủy diệt mầm mống hình thành nhà nước của người Do Thái
Lê Thế Mẫu
Dự án Ararat
Năm 1825, một người Mỹ gốc Do Thái, ông Mordecai Manuel Noah, đề xuất dự án mang tên Ararat để hình thành khu vực thuộc địa dành cho người Do Thái ở phía Bắc thành phố New York.
Tên gọi Ararat xuất phát từ một truyền thuyết trong Kinh Thánh. Truyền thuyết kể rằng, khi phải chứng kiến vô vàn tội ác mà con người gây ra, Thượng đế hết sức tức giận và hối hận vì mình đã tạo ra loài người.
Thế rồi, vào khoảng 3.000 năm Trước công nguyên, Thượng đế quyết định sẽ gây nên một cơn đại hồng thủy để hủy diệt hết thảy những mầm mống gây ra tội ác.
Lúc bấy giờ, trên Trái đất có một người tên Noah lòng dạ ngay thẳng và nhân hậu nên được Thượng đế rủ lòng thương, không nỡ giết hại và đã báo mộng cho ông ta biết ý định của mình.
Người khuyên Noah đóng một chiếc thuyền thật lớn để có thể làm nơi trú ngụ của tất cả những người thân trong gia đình mình cùng các loài động vật theo quy định chỉ được mang theo một cặp giống đực và giống cái.
Nghe theo lời khuyên của Thượng đế, Noah huy động thợ thủ công đóng một chiếc thuyền khổng lồ, dài 360m, rộng 23m, cao 13,6m, được kết cấu thành 3 tầng để đưa toàn bộ gia đình và các loài động vật lên đó, mỗi loài chỉ có một cặp.
Đúng vào thời điểm thuyền được đóng xong và tất cả các loài đã được đưa lên thuyền, Thượng đế khởi phát cơn đại hồng thủy tàn phá hết thảy mọi thứ từng gây ra tội ác trong suốt 40 ngày đêm, chỉ trừ các thành viên gia đình Noah và những động vật trên thuyền.
Khi trận đại hồng thủy kết thúc và nước rút dần, Noah phóng thích một con chim bồ câu khỏi thuyền để xem xét tình hình bên ngoài.
Lần thứ nhất, chim bồ câu không tìm được chỗ đậu do nước lũ chưa cạn hết nên phải bay trở về thuyền.
Bảy ngày sau, Noah lại thả con bồ câu một lần nữa. Lần này nó bay trở về với cành oliu ngậm trên mỏ. Trông thấy cảnh tượng này, Noah biết là nước đã rút, trên Trái đất đã có hòa bình và Thượng đế đã hết cơn thịnh nộ. Ông tiếp tục thả con bồ câu ra và lần này nó bay đi không quay trở về.
Xuất phát từ truyền thuyết về chiếc thuyền của Noah, hình ảnh chim bồ câu ngậm cành oliu được loài người sử dụng làm biểu tượng của hòa bình. Còn Noah đã đưa tất cả các sinh vật ra khỏi thuyền, trở lại mặt đất để tiếp tục sinh sống.
Sau trận đại hồng thủy, Thượng đế lập một giao ước với Noah và cảnh báo loài người rằng hãy sinh sôi nảy nở trên Trái đất, nhưng cần phải chung sống hòa bình và lương thiện.
Trong bài diễn văn nói về dự án Ararat, Mordecai Manuel Noah bày tỏ niềm tin rằng người Do Thái sẽ được tụ hội sau hàng nghìn năm bị ly tán và khôi phục tổ quốc của họ.
Ông kêu gọi Mỹ ủng hộ dự án Ararat, đồng thời mua toàn bộ đất trên đảo Grand với giá 4,38 USD (khoảng 122 USD vào năm 2024) 1 mẫu Anh (4.047m2) để xây dựng nơi trú ngụ cho tất cả những người Do Thái muốn hội tụ về đây.
Tuy nhiên, dự án Ararat không thành công. Về sau, Mordecai Manuel Noah đề xuất ý tưởng tái định cư người Do Thái trên vùng đất của người Palestine, trở thành tiền đề hình thành phong trào phục quốc của người Do Thái về sau này.
Dự án Uganda
Năm 1903, Bộ trưởng đặc trách vấn đề thuộc địa của Vương quốc Anh, ông Joseph Chamberlain, đề xuất dự án Uganda để hình thành khu vực tự trị của người Do Thái.
Theo dự án này, một phần lãnh thổ Uganda ở Đông Phi chịu sự bảo hộ của Vương quốc Anh được sử dụng để thành lập khu tự trị của người Do Thái.
Khu vực này rộng 13.000km2 thuộc dãy núi Mau Escarpment, ngày nay thuộc Cộng hòa Kenya. Cùng trong năm đó, đại hội của Tổ chức phục quốc của người Do Thái tại Basel (Thụy Sĩ) thông qua quyết định ủng hộ dự án Uganda với 295 phiếu thuận, là số phiếu thuận áp đảo.
Về sau, một phái đoàn của Chính phủ Anh được cử đến Uganda để khảo sát tình hình thực tế. Kết quả khảo sát cho thấy, Uganda nằm trên vùng cao nguyên có khí hậu ôn hòa rất thích hợp cho người châu Âu định cư.
Tuy nhiên, đây là vùng đất hoang dã, nơi sinh sống của vô vàn loài thú ăn thịt và bộ tộc Maasai kịch liệt phản đối dòng người di cư từ châu Âu. Sau khi nhận được báo cáo về kết quả cuộc khảo sát này, Quốc hội Anh quyết định dừng vô thời hạn Dự án Uganda.
Dự án Birobidzhan
Ngày 28-3-1928, Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô thông qua nghị quyết về việc giao một vùng đất gần sông Amur ở Viễn Đông cho Ủy ban đặc trách công việc định cư của người Do Thái để thành lập một đơn vị hành chính - lãnh thổ của người Do Thái.
Ngày 20-8-1930, Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao thông qua nghị quyết về việc thành lập Khu dân tộc tự trị Birobidzhan thuộc lãnh thổ vùng Viễn Đông. Ủy ban Kế hoạch nhà nước Liên Xô coi Khu dân tộc tự trị Birobidzhan là một đơn vị kinh tế riêng biệt.
Năm 1932, Chính phủ Liên Xô phê duyệt các chỉ tiêu quy hoạch đầu tiên về sự phát triển của khu Birobidzhan. Năm 1938, với sự hình thành vùng Khabarovsk, khu Birobidzhan được coi là Khu tự trị của người Do Thái thuộc vùng này.
Theo chính sách dân tộc của Joseph Stalin, mỗi dân tộc thuộc thành phần của Liên Xô đều có quyền định cư trên một phần lãnh thổ. Tại đó, các dân tộc được quyền tự chủ về văn hóa trong khuôn khổ nhà nước Xô Viết xã hội chủ nghĩa.
Một trong những mục tiêu quan trọng của dự án Birobidzhan là gia tăng dân số ở vùng Viễn Đông xa xôi của Liên Xô, đặc biệt là dọc theo biên giới dễ bị tổn thương trước “sự nhòm ngó” của Trung Quốc.
Tuy nhiên, Liên Xô không thể hiện thực hóa dự án Birobidzhan vì người Do Thái lại phân bố chủ yếu ở các khu vực phía Tây Liên Xô như Ukraina, Belarus.
Điều kiện địa hình và khí hậu của Birobidzhan khắc nghiệt, chủ yếu là đầm lầy, buộc những người mới tới đây định cư phải bắt đầu cuộc sống từ hai bàn tay trắng.
Một số người còn cho rằng, việc Joseph Stalin chọn Birobidzhan xuất phát từ chủ trương giữ người Do Thái cách xa các trung tâm quyền lực.
Vì thế, dự án Birobidzhan bị hủy bỏ vào giữa những năm 30 của thế kỷ XX do tác động của chiến dịch ổn định tình hình nội bộ Liên Xô trong bối cảnh nguy cơ Chiến tranh thế giới thứ hai cận kề.
Sau chiến tranh, dự án thành lập khu vực tự trị dành cho người Do Thái ở Liên Xô bị gác lại do người Do Thái đã được hòa nhập rất thành công vào xã hội Xô Viết.
Trong số người Do Thái có nhiều người trở thành các nhà lãnh đạo, quản lý và nhà khoa học kiệt xuất, điển hình là nhà vật lý người Do Thái Lev Landao được trao Giải thưởng Nobel về vật lý.
Dự án Madagascar
Dự án Madagascar ra đời vào năm 1938, trước khi bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai, xuất phát từ toan tính của Chính phủ Đức Quốc xã nhằm cưỡng bức người Do Thái di cư đến đảo Madagascar vốn là thuộc địa của Pháp ở châu Phi.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ vào ngày 1-9-1939, Đức Quốc xã đánh bại Pháp, dự án Madagascar đứng trước triển vọng được hiện thực hóa.
Để thực hiện dự án này, Đức Quốc xã dự kiến sẽ sử dụng các tàu của Hải quân Anh để di tản người Do Thái sang châu Phi. Tuy nhiên, dự án Madagascar bị gác lại sau khi Đức Quốc xã bị thất bại trong cuộc chiến với Anh vào cuối năm 1940.
Năm 1941, cái gọi là “giải pháp lãnh thổ cho vấn đề Do Thái” được chuyển thành “giải pháp triệt để”, nghĩa là tiêu diệt tận gốc người Do Thái.
Chính Adolf Hitler từng tuyên bố, “vấn đề Do Thái” chỉ có thể được giải quyết bằng cách loại bỏ hoàn toàn người Do Thái khỏi châu Âu.
Ngày 21-6-1941, bác bỏ Hiệp ước không xâm lược giữa Liên Xô và Đức (còn gọi là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop), Adolf Hitler bất ngờ phát động chiến dịch tấn công Liên Xô.
Trong chiến dịch này, Đức Quốc xã bắt đầu cuộc tàn sát có hệ thống đối với các dân tộc Slav và người Do Thái ở Liên Xô.
Từ cuối năm 1941, đầu năm 1942, Đức Quốc xã bắt đầu các cuộc thí nghiệm đầu tiên sử dụng khí độc để tiêu diệt người Do Thái tại các trại tập trung ở Auschwitz, Belzec, Chelmno, Sobibor, Treblinka và Majdanek.
Thắng lợi của Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã cứu người Do Thái thoát khỏi thảm hoạ bị diệt chủng.
Chính phủ Ba Lan cũng có dự án tái định cư người Do Thái đến đảo Madagascar. Theo dự án này, Ba Lan sẽ trục xuất ban đầu từ 40.000 đến 60.000 người Do Thái và sau đó là toàn bộ cộng đồng người Do Thái ở Ba Lan đến Madagascar.
Ngày 4-5-1937, tại cuộc họp giữa Đại sứ Ba Lan Juliusz Lukaszewicz, Chủ tịch Ủy ban thuộc địa của Ba Lan Mieczyslaw Lepecki và Bộ trưởng Pháp Marius Moutet, các bên nhất trí thông qua dự án đưa người Do Thái tới định cư ở Madagascar.
Năm 1935, Chính phủ Ba Lan thành lập Nhóm đặc trách công tác di cư người Do Thái tới châu Phi. Ngày 23-2-1936, nhóm này đệ trình chính phủ bản ghi nhớ về vấn đề di cư người Do Thái và các vấn đề thuộc địa.
Trong đó cảnh báo nguy cơ người Do Thái chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong tốc độ tăng trưởng dân số ở Ba Lan và đề xuất ý tưởng khẩn cấp tái định cư người Do Thái tới Madagascar./.
Kỳ 2: Israel - sự phục hưng ngoạn mục của dân tộc Do Thái