Giải mã chiến dịch xuyên tạc vai trò quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến đánh bại chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt
LÊ THẾ MẪU
Kỳ I: Giải mã luận điệu xuyên tạc cho rằng “Liên Xô hợp tác với Đức quốc xã để gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai”
Ngày 9-5-2025, Liên bang Nga - quốc gia kế thừa vị thế pháp lý của Liên Xô - cùng với nguyên thủ và đại diện của 30 quốc gia, trong đó có Việt Nam, long trọng kỷ niệm 80 năm Ngày Chiến thắng trong Cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Có 13 quốc gia cử đoàn quân nhân tham dự cuộc duyệt binh hoành tráng trên Quảng trường Đỏ ở Moscow. Trong khi đó, một số quốc gia ở châu Âu lại đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc vai trò có ý nghĩa quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến vô cùng anh dũng và khốc liệt để đánh bại chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt, cứu loài người thoát khỏi thảm hoạ diệt chủng. Thậm chí, họ xuyên tạc rằng Liên Xô “cấu kết với Đức Quốc xã để gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai!”.
Trong bối cảnh Liên bang Nga chuẩn bị kỷ niệm 80 năm Ngày Chiến thắng trong Cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, ngày 16-4-2025, trên trang fanpage của đại sứ quán một nước châu Âu đăng bài viết với tiêu đề “Nước Nga Xô Viết đóng vai trò trong sự trỗi dậy sức mạnh quân sự của Đức Quốc xã”.
Trên trang fanpage này đưa ra nhận định: “sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Đức bị cấm phát triển vũ khí hạng nặng. Vì thế, Berlin đã khéo léo lách luật này bằng cách hợp tác bất hợp pháp với Liên Xô để nhanh chóng củng cố tiềm lực quân sự nhằm chuẩn bị phát động Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Nhờ sự hợp tác bí mật với Liên Xô, Đức đã phát triển các loại vũ khí chiến lược quân sự mới trong thời gian rất ngắn. Trong đó có xe tăng và máy bay chiến đấu là thành phần chủ chốt trong trang bị của Đức Quốc xã. Tất cả sự hợp tác này bắt nguồn từ Hiệp ước Rapallo ngày 16-4-1922”.
Ngày 7-5-2025, trên trang fanpage của Đại sứ quán một nước châu Âu khác lại đưa ra nhận định: “Chiến tranh thế giới thứ hai bắt nguồn từ Hiệp ước Xô - Đức không tấn công lẫn nhau đã phân chia châu Âu thành các khu vực thống trị. Chúng ta phải tránh lặp lại những sai lầm đã dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai và trật tự Yalta sau đó”.
Dựa trên luận điệu đó, Đại sứ quán quốc gia này cho rằng, những đội quân sẽ diễu hành trên Quảng Trường Đỏ ở Moscow trong ngày 9-5 không phải là lực lượng giải phóng châu Âu mà là “những kẻ xâm lược” và là “tội phạm chiến tranh”!? Từ đó, họ kêu gọi tất cả các nước trên thế giới không cử quân nhân tham gia lễ duyệt binh trong ngày 9-5 tại Moscow.
Còn đại diện Liên minh châu Âu (EU) về chính sách đối ngoại và an ninh, bà Kaja Kallas kêu gọi các nước tẩy chay hoạt động của Nga kỷ niệm 80 năm Ngày chiến thắng phát xít Đức. Bà Kaja Kallas tuyên bố rằng, EU đã thông báo với các nước ứng cử viên gia nhập liên minh này rằng họ sẽ không được hoan nghênh nếu tham dự Lễ kỷ niệm Ngày Chiến thắng 9-5 ở Moscow.
Thông tin trên trang fanpage của Đại sứ quán của 2 quốc gia châu Âu này đã xuyên tạc toàn bộ sự thật lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời loại bỏ vai trò có ý nghĩa quyết định của Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến vô cùng anh dũng và quả cảm để đánh bại chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt trong Chiến tranh thế giới thứ hai và cứu loài người thoát khỏi thảm hoạ diệt chủng.
Trước hết, cần giải mã nội dung của Hiệp ước Rapallo được ký kết vào ngày 16-4-1922 giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga - tiền thân của Liên Xô, với Cộng hòa Weimar - tên gọi của nước Đức vào thời điểm đó khi Đảng Quốc xã của Adolf Hitler chưa lên cầm quyền.
Hiệp ước Rapallo bao gồm 6 điều khoản với nội dung chỉ nhằm hóa giải các bất đồng giữa Đức và Nga liên quan tới hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong đó có việc xử lý vấn đề tù binh của 2 nước trong chiến tranh; việc nước Đức phải bồi thường chiến tranh theo Hiệp ước hòa bình Versailles; thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Đức và Nga trong bối cảnh nước Nga Xô Viết bị Mỹ và phương Tây cô lập sau cuộc Cách mạng Tháng Mười (7-11-1917); thiết lập quan hệ thương mại giữa 2 nước; tạo điều kiện sống bình thường cho công dân 2 nước trên lãnh thổ của mỗi bên.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nga và Đức đứng trên 2 chiến tuyến khác nhau. Đức đóng vai trò chủ yếu trong Liên minh Trung tâm cùng với các đế quốc Áo - Hung, Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgaria, còn Nga tham gia Khối đồng minh cùng với Mỹ, Pháp, Anh, Italia và một số nước khác. Trong cuộc chiến này, nước Đức bị đánh bại và phải ký kết Hiệp ước hòa bình Versailles vào ngày 28-6-1919.
Hiệp ước hòa bình Versailles được ký kết tại Pháp giữa một bên là các nước đồng minh thắng cuộc gồm Mỹ, Anh, Pháp, Italia và 22 quốc gia khác với bên kia là nước Đức bại trận. Nga tuy là nước trong khối đồng minh, nhưng không được mời tham dự.
Theo hiệp ước này, Đức phải trả lại vùng Alsace-Lorraine cho Pháp; trả quận Eupen-Malmedy cho Bỉ; trả vùng Poznan, một phần thượng Silesia và Tây Phổ cho Ba Lan; trả vùng Schleswig cho Đan Mạch; nhượng một phần lãnh thổ cho Litva và Tiệp Khắc; phải chuyển giao các mỏ than ở lưu vực Saar cho Pháp trong 15 năm.
Ngoài ra, Đức phải cam kết công nhận nền độc lập và chủ quyền của Áo, Ba Lan, Tiệp Khắc và của tất cả các lãnh thổ đã từng là một phần của Đế quốc Nga trước ngày 1-8-1914.
Cũng theo Hiệp ước hòa bình Versailles, trong 3 năm (1919 - 1921), Đức phải bồi thường chiến tranh cho các nước thắng cuộc 20 tỷ DM (Deutsche Mark) được bảo đảm bằng vàng; chuyển giao cho các nước thắng trận tất cả tàu thương mại có tải trọng trên 1.600 tấn, 1/5 hải đội đường sông và phải đóng cho họ các tàu thương mại với tổng tải trọng 200.000 tấn/năm trong vòng 5 năm.
Trong 10 năm, Đức phải chuyển 140 triệu tấn than đá cho Pháp, 80 triệu tấn cho Bỉ và 77 triệu tấn cho Italia, đồng thời phải chuyển giao cho họ một nửa tổng sản phẩm công nghiệp hóa chất. Ngoài ra, Hiệp ước hòa bình Versailles còn áp đặt một số hạn chế đối với Đức trong lĩnh vực quân sự.
Theo đó, Đức chỉ được phép xây dựng lục quân với quân số gồm 100.000 người; không được phát triển các loại vũ khí hạng nặng; phải bãi bỏ nghĩa vụ quân sự bắt buộc; phải chuyển giao toàn bộ vũ khí trang bị của hải quân cho các quốc gia thắng cuộc. Đức còn phải chấp nhận cho quân đồng minh chiếm đóng tạm thời vùng Rhineland trong 15 năm.
Cũng theo Hiệp ước hòa bình Versailles, Đức không được áp đặt bất kỳ hạn chế nào đối với việc nhập khẩu hàng hóa từ các nước đồng minh và phải áp dụng chế độ tối huệ quốc trong giao thương với họ.
Vì thế, Đức coi Hiệp ước hòa bình Versailles là “nỗi quốc nhục” đối với họ. Về sau, Đảng Quốc xã lên cầm quyền từ năm 1933 đã lợi dụng “nỗi quốc nhục” này để hô hào người Đức “rửa hận”.
Nhận định về diễn biến này, Tướng Pháp Ferdinand Foch - Tổng Tư lệnh tối cao của các lực lượng đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất - cho rằng: Hiệp ước Versailles sẽ không mang lại hòa bình mà chỉ là khoảng lặng giữa hai cuộc đại chiến.
Nắm bắt được ý chí phục thù của nước Đức, giới tài phiệt Mỹ quyết định ủng hộ toàn diện về kinh tế, chính trị và quân sự để đưa Hitler - thủ lĩnh của Đảng Quốc xã - lên cầm quyền ở Berlin và sử dụng bộ máy quân sự nước Đức chuẩn bị phát động Chiến tranh thế giới thứ hai, thực chất là cuộc chiến tranh ủy nhiệm của Mỹ nhằm làm suy yếu các nước tư bản ở châu Âu và thôn tính Liên Xô.
Sau Cách mạng Tháng Mười, sau khi đánh bại cuộc can thiệp quân sự của 14 quốc gia tư bản với toan tính tiêu diệt nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, giới lãnh đạo nước Nga Xô Viết dưới sự lãnh đạo của V.I. Lenin nhận thấy rất rõ Hiệp ước hòa bình Versailles chỉ là “khoảng lặng” giữa 2 cuộc đại chiến.
Do đó, sau khi được thành lập vào năm 1922, Liên Xô quyết định thực hiện chương trình công nghiệp hóa vĩ đại để chuẩn bị đối phó với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tất yếu sẽ bùng nổ ở châu Âu.
Chương trình công nghiệp hóa của Liên Xô hoàn tất vào năm 1937, tạo điều kiện để Liên Xô tiến hành thành công cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, đánh bại chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1941 - 1945).
Vì vậy, tuyệt nhiên không thể có chuyện nước Nga Xô Viết tạo điều kiện cho nước Đức nhanh chóng xây dựng lại tiềm lực quân sự để chuẩn bị phát động Chiến tranh thế giới thứ hai.
Về thông tin trên trang fanpage của Đại sứ quán một nước châu Âu khác cho rằng Chiến tranh thế giới thứ hai “bắt nguồn từ Hiệp ước Xô - Đức không tấn công lẫn nhau” ký ngày 23-8-1939, cần nhận thấy rằng Nghị viện châu Âu còn dựa vào Hiệp ước này để thông qua nghị quyết coi “Liên Xô cấu kết với Đức Quốc xã để gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai”!?
Với lập luận xuyên tạc đó, các nước châu Âu lấy ngày 23-8 hằng năm làm “Ngày tưởng nhớ các nạn nhân của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa Stalin” (J. Stalin là nhà lãnh đạo cao nhất kiêm Tổng tư lệnh Các lực lượng vũ trang Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai).
Luận điệu xuyên tạc này hoàn trái ngược lại sự thật lịch sử. Sở dĩ Liên Xô phải ký hiệp ước không tấn công lẫn nhau với Đức Quốc xã là nhằm tránh hiểm hoạ Berlin sẽ dồn toàn bộ tiềm lực quân sự của toàn châu Âu để tấn công Liên Xô.
Ngoài ra, J. Stalin biết rất rõ, Hiệp ước không tấn công lẫn nhau ký với Đức quốc xã chỉ có thể có tác dụng lùi lại thời điểm A. Hitller tấn công Liên Xô để chuẩn bị đối phó chứ không thể tránh được chiến tranh.
Đúng như dự báo của giới lãnh đạo Liên Xô, trước khi Liên Xô ký với Đức Quốc xã Hiệp ước không tấn công lẫn nhau, nhiều nước châu Âu đã từng ký với Đức Quốc xã các hiệp ước tương tự. Trong số đó có Ba lan (ký ngày 26-1-1934); Anh (30-9-1938); Latvia và Estonia (7-6-1939).
Ngoài ra, ngày 18-6-1935, Anh ký với Đức Quốc xã Hiệp định cho phép Berlin xây dựng hạm đội hải quân từng bị cấm theo Hiệp ước hòa bình Versailles.
Ngày 30-9-1938, Anh, Pháp và Italia ký Hiệp ước Munich với Đức Quốc xã để cắt tỉnh Sudet của Tiệp Khắc cho nước Đức.
Ngày 6-12-1938, Pháp và Đức Quốc xã ký Tuyên bố về quan hệ hòa bình và không tranh chấp lãnh thổ của nhau.
Ngày15-3-1939, Anh và Đức quốc xã ký Hiệp định về hợp tác xây dựng công nghiệp quân sự.
Cũng đúng như dự báo của Liên Xô, ngay sau khi phát động Chiến tranh thế giới thứ hai vào ngày 1-9-1939, Đức Quốc xã đã ký hiệp ước liên minh với nhiều nước châu Âu để tập hợp lực lượng nhằm chuẩn bị chiến dịch tấn công Liên Xô.
Theo đó, ngày 27-9-1940, Đức Quốc xã ký Hiệp ước ba bên với các đồng minh then chốt nhất là Italia và Nhật Bản. Tiếp đến, Đức Quốc xã ký hiệp ước liên minh với Hungary (20-11-1940), Romania (23-11-1940), Slovakia (24-11-1940), Phần Lan (1-12-1940), Bulgaria và Croatia (1-3-1941), Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ (18-6-1941).
Vì thế, hầu hết các nước châu Âu không chỉ đầu hàng phát xít Đức trong những ngày đầu chiến tranh, mà còn thành lập lực lượng khoảng 1,8 triệu người để cùng chiến đấu trong hàng ngũ phát xít Đức trong cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô. Trong số đó có Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Pháp, Tây Ban Nha, Romania, Phần Lan, Hungary, Italia, Tiệp Khắc, Slovakia, Hà Lan, Bỉ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Bulgaria và Thổ Nhĩ Kỳ./.
Kỳ 2: Vai trò quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến đánh bại chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt trong Chiến tranh thế giới thứ hai