27/06/2025 | 15:44 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Giải mã chiến dịch xuyên tạc vai trò quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến đánh bại chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt

Lê Thế Mẫu
Giải mã chiến dịch xuyên tạc vai trò quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến đánh bại chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt Một chiến sĩ Hồng quân giương cao ngọn cờ chiến thắng trong trận Stalingrad_Ảnh tư liệu

Kỳ III: Thắng lợi của Liên Xô trong chiến dịch chiến lược Stalingrad xoay chuyển căn bản cục diện Chiến tranh thế giới thứ hai

Bị thất bại thảm hại ở ngoại ô Moscow, Adolf Hitler nhận thấy toan tính “đánh nhanh, thắng nhanh” đã bị phá sản và quyết định điều chỉnh chiến lược chiến tranh với Liên Xô theo hướng “đánh tiêu hao kéo dài”. Để thực hiện sự điều chỉnh chiến lược này, A. Hitler tập trung lực lượng tinh nhuệ nhất để đánh hủy diệt tiềm lực kinh tế, công nghiệp quân sự và hậu cần của Liên Xô và chọn Stalingrad làm mục tiêu chủ yếu.

Thành phố Stalingrad không chỉ là một trong những trung tâm công nghiệp nặng hàng đầu mà còn là cửa ngõ tiếp cận hậu phương cung cấp lương thực và thực phẩm, trước hết là vựa lúa mì lớn nhất của Liên Xô ở miền Nam. Ngoài ra, Stalingrad còn là hướng tiếp cận tới vùng Caucasus của Liên Xô - nơi tập trung các mỏ dầu, trong đó tâm điểm là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Azerbaijan. 

Chính vì thế, A. Hitler tuyên bố rằng nếu không đánh chiếm được Stalingrad, mục tiêu trong Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ bị phá sản. Do đó, Bộ Chỉ huy tối cao của Liên Xô dưới sự lãnh đạo của J. Stalin quyết định đánh bại phát xít Đức ở Stalingrad.

Để đánh chiếm Stalingrad, quân Đức bố trí lực lượng thiện chiến nhất thành Cụm các tập đoàn quân A và Cụm tác tập đoàn quân B. Cụm A được giao nhiệm vụ đánh chiếm toàn bộ khu vực dãy núi Kavkaz để tạo bàn đạp tiến thẳng xuống phía Nam là nơi có các mỏ dầu của Liên Xô. Cụm B sẽ đánh chiếm thành phố Stalingrad. Lực lượng nòng cốt của Cụm B là Tập đoàn quân số 6 được coi là “át chủ bài” của quân Đức dưới sự chỉ huy của tướng Friedrich Paulus dạn dày trận mạc và nhận được sự chi viện hỏa lực của các sư đoàn xe tăng và không quân.

Ngày 17-7-1942, phát xít Đức mở cuộc tấn công trực tiếp vào thành phố Stalingrad - khởi đầu trận chiến khốc liệt nhất và đẫm máu nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nếu để mất Stalingrad vào tay quân Đức, Liên Xô sẽ đặt toàn bộ khu vực hậu phương chiến lược vào thế vô cùng bất lợi. 

Mệnh lệnh số 227 ngày 28-7-1942 của Bộ Tổng tư lệnh tối cao của Hồng quân Liên Xô ghi rõ: “rút lui khỏi Stalingrad là hành động tự sát và phản bội tổ quốc. Kỷ luật sắt đối với bất cứ chỉ huy hay chiến sĩ nào của Hồng quân là không được lùi bước khi chưa nhận được lệnh của cấp chỉ huy tối cao”.

Thực hiện Mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao J. Stalin, Hồng quân Liên Xô tiến hành chiến dịch chiến lược bảo vệ Stalingrad theo 2 giai đoạn phòng thủ và tiến công. Khi bước vào giai đoạn phòng thủ, Hồng quân Liên Xô gặp nhiều khó khăn do quân Đức chiếm ưu thế vượt trội: gấp 1,7 lần về quân số, gấp 1,3 lần về lực lượng dự bị chiến lược, gấp 1,3 lần về lực lượng pháo binh, gấp 2 lần về lực lượng không quân. 

Trước khi tấn công, quân Đức còn tăng cường triển khai lực lượng trên hướng Stalingrad từ 38 lên 80 sư đoàn và nhận được sự chi viện của Tập đoàn quân xe tăng số 4. A. Hitler coi đánh chiếm Stalingrad là mục tiêu chủ yếu trong Chiến tranh thế giới thứ hai không chỉ vì thành phố này là trung tâm công nghiệp nặng của Liên Xô mà còn mang tên Stalin - Tổng Tư lệnh tối cao của Hồng quân Liên Xô. 

Mở đầu cuộc tấn công, ngày 23-8-1942, hàng trăm máy bay của Không quân Đức thực hiện chiến dịch ném bom rải thảm xuống thành phố Stalingrad, khiến 40.000 dân thường thiệt mạng. Các kho chứa dầu của Liên Xô bị quân Đức phá hủy, dầu chảy tràn xuống sông Volga và bốc cháy dữ dội thành “dòng sông lửa”.

Về phía Liên Xô, Tập đoàn quân số 62 do Tướng V. Chuikov chỉ huy và Tập đoàn quân số 64 của Tướng M. Shumilov được giao nhiệm vụ bảo vệ thành phố Stalingrad với quyết tâm “chiến đấu để bảo vệ từng ngôi nhà và dãy phố”. Mặc dù Bộ Chỉ huy tối cao của Liên Xô liên tục tăng quân số và điều động lực lượng từ các mặt trận khác, nhưng vẫn không thể giành được ưu thế quân sự so với quân Đức do tuyến phòng thủ trải dài hơn 500km. 

Trong cuộc giao tranh ở Stalingrad, Hồng quân Liên Xô phải áp dụng chiến thuật “nắm thắt lưng địch mà đánh” để tránh hỏa lực của Không quân Đức dội bom rải thảm. Trong cuộc giao tranh này, chính các tướng lĩnh của Đức đã phải thừa nhận hành động quả cảm và anh dũng vô song của các chiến sĩ Hồng quân với đánh giá gửi về Bộ Chỉ huy: “một người lính Nga đủ sức đương đầu với cả một đơn vị của chúng tôi!”.

Trung tâm của cuộc giao tranh vô cùng khốc liệt giữa Hồng quân Liên Xô và quân Đức ở Stalingrad là đồi Mamayev. Từ cao điểm này có thể quan sát khu vực địa hình rộng lớn và sử dụng hỏa lực để khống chế một phần đáng kể thành phố Stalingrad. 

Quân Đức và Hồng quân Liên Xô đã giao tranh quyết liệt để giành quyền kiểm soát từng tấc đất trên cao điểm Mamayev. Để chi viện cho lực lượng bảo vệ Stalingrad, đêm ngày 15-9-1942, vượt qua hỏa lực dữ dội nhất của quân Đức, Sư đoàn cận vệ số 13 do Tướng A. Rodimtsev chỉ huy đã anh dũng vượt qua sông Volga và tham chiến để giành quyền kiểm soát hoàn toàn đối với đồi Mamayev. 

Trong cuộc giao tranh này, trung sĩ Yakov Pavlov cùng đồng đội đã giành được quyền kiểm soát một ngôi nhà gần bờ sông Volga từ tay quân Đức và bảo vệ nó trong gần 2 tháng. Tướng Đức Wietersheim từng viết trong báo cáo gửi về Berlin: “cùng với quân đội, toàn dân Stalingrad đã đứng lên cầm vũ khí để bảo vệ thành phố. Tôi đã chứng kiến những công nhân chết trong bộ quần áo lao động với tư thế tay vẫn nắm chắc vũ khí. Tôi chưa bao giờ thấy hình ảnh nào tương tự trong các cuộc giao tranh trên chiến trường châu Âu!”.

Dưới sự chỉ đạo chiến lược của J. Stalin và tài thao lược của các tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến dịch Stalingrad, đứng đầu là Nguyên soái G. Zhukov, Hồng quân Liên Xô đã hoàn thành mục tiêu chủ yếu của giai đoạn phòng thủ là bảo vệ được thành phố này, đồng thời đánh tiêu hao đáng kể lực lượng tấn công của quân Đức, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển sang giai đoạn phản công. Trong giai đoạn phòng thủ, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt khoảng 700.000 binh sĩ, khoảng 1.000 xe tăng, 1.400 khẩu pháo và súng cối và 1.400 máy bay của quân Đức.

Ngày 13-11-1942, J. Stalin phê duyệt Kế hoạch phản công chiến lược ở Stalingrad do Nguyên soái G. Zhukov và Tổng tham mưu trưởng Hồng quân A. Vasilevsky soạn thảo. Theo kế hoạch, để thực hiện giai đoạn phản công chiến lược, Hồng quân Liên Xô đã giành được ưu thế vượt trội về lực lượng và vũ khí trang bị so với quân Đức. 

Về quân số: 1,1 triệu người/1,0 triệu; về số lượng xe tăng: 1.560/675; về số lượng pháo và súng cối: 15.000/10.000; về số máy bay chiến đấu: 1.900/1.200. Mở đầu chiến dịch phản công, Hồng quân Liên Xô chọn mục tiêu là những khu vực xung yếu nhất trong hệ thống phòng ngự của quân Đức - nơi triển khai lực lượng của các nước chư hầu gồm Hungary, Romania, Bulgaria và đồng minh Italia. Quân Đức hoàn toàn bất ngờ trước đòn phản công của Liên Xô.

Sau khi J. Stalin qua đời năm 1953, theo trào lưu chủ nghĩa xét lại và núp dưới chiêu bài “chống sùng bái cá nhân Stalin”, N. Khrushchev trên cương vị Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô quyết định đổi tên thành phố Stalingrad thành tên cũ là Volgagrad. Năm 1965, Đoàn Chủ tịch Xô Viết tôi cao Liên Xô quyết định phong tặng Volgagrad danh hiệu “Thành phố anh hùng”. Hơn 700.000 người tham gia trận chiến vĩ đại này được trao tặng Huân chương “Vì sự nghiệp bảo vệ Stalingrad”. Ngày 2-2 được vinh danh là “Ngày vinh quang của quân nhân Nga”. Trong dịp kỷ niệm 80 Chiến thắng trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, nhiều chiến binh đề nghị Tổng thống Nga V. Putin đổi lại tên của Volgagrad là “Thành phố Anh hùng”.

Vào 7h30 sáng ngày 19-11-1942, Hồng quân Liên Xô sử dụng hàng trăm dàn pháo phản lực bắn loạt nổi tiếng Katyusha mở đầu chiến dịch phản công bằng đợt pháo kích ồ ạt kéo dài 80 phút. Hệ thống phòng thủ của quân Đức bị phá hủy từng mảng lớn. Đến 8h50 sáng, các đơn vị bộ binh và xe tăng của Hồng quân Liên Xô bước vào tham chiến. Về sau, ngày 19-11 được chọn làm Ngày Truyền thống của Pháo binh Liên Xô (nay là Ngày truyền thống của Lực lượng tên lửa và pháo binh Nga). 

Từ ngày 23-11-1942, Hồng quân Liên Xô khép chặt vòng vây xung quanh Tập đoàn quân số 6 của Tướng Friedrich Paulus và các sư đoàn còn lại của quân Đức với tổng quân 300.000 binh sĩ được biên chế thành 22 sư đoàn. A. Hitler bị choáng váng trước đòn phản công bất ngờ của Hồng quân Liên Xô nhưng vẫn ra lệnh cho quân Đức không được rút khỏi Stalingrad trong bất kỳ tình huống nào.

Thống chế Không quân Hermann Goering cam kết với A. Hitler rằng ông ta sẽ thiết lập một cầu hàng không đáng tin cậy để yểm trợ cho các lực lượng của quân Đức đang bị vây hãm ở Stalingrad. Tuy nhiên, hàng trăm máy bay của quân Đức đã bị hệ thống phòng không của Liên Xô bắn hạ. Trong tình huống không được bảo đảm hậu cần, quân Đức gần như bị bỏ đói trong điều kiện mùa đông băng giá nghiệt ngã ở nước Nga. 

Trong tình thế gần như vô vọng, A. Hitler ra lệnh cho Thống chế Erich von Manstein thành lập một tập đoàn quân mới để giải vây cho Tập đoàn quân số 6 của Tướng Friedrich Paulus. Để đánh chặn quân Đức đến tiếp viện, Bộ Tư lệnh tối cao của Hồng quân quyết định điều động Tập đoàn quân cận vệ số 2 do tướng R. Malinovsky chỉ huy thần tốc hành quân tới Stalingrad để tiêu diệt các sư đoàn xe tăng của quân Đức. Tình thế của quân Đức ở Stalingrad khi đó gần như vô vọng.

Đến tháng 1-1943, Bộ Tổng tư lệnh tối cao của Hồng quân Liên Xô quyết định điều động Phương diện quân do Tướng K. Rokossovsky chỉ huy mở đợt phản công tiếp theo để tiêu diệt toàn bộ lực lượng của phát xít Đức ở Stalingrad, đồng thời gửi tối hậu thư tới A. Hitler yêu cầu quân Đức đầu hàng vô điều kiện. A. Hitler từ chối yêu cầu của Liên Xô, đồng thời phong Tướng F. Paulus làm Thống chế Đức để động viên tinh thần tử thủ của hắn. 

Tuy nhiên, trong tình thế hoàn toàn bất lực, ngày 24-1-1943, Thống chế F. Paulus gửi báo cáo tới A. Hitler: “thất bại là điều không thể tránh khỏi. Để cứu những người lính còn sống sót, chúng tôi yêu cầu được phép đầu hàng ngay lập tức”. A. Hitler trả lời: “phải chiến đấu đến người lính cuối cùng”.

Không chấp nhận mệnh lệnh của A. Hitler, F. Paulus đã quyết định đầu hàng cùng với toàn bộ lực lượng dưới quyền chỉ huy của hắn gồm 24 tướng, 2.500 sĩ quan và khoảng 90.000 binh sĩ. Tất cả bị bắt làm tù binh. Cuộc chiến ở Stalingrad kết thúc vào ngày 2-2-1943, trong đó thiệt hại của quân Đức và các đồng minh gồm Italia, Romania, Hungary, Bulgaria và Croatia khoảng 1,5 triệu người. 

Về trang bị, quân Đức mất khoảng 2.000 xe tăng, 10.000 pháo và súng cối, 3.000 máy bay và 70.000 xe cơ giới. Liên Xô cũng phải chịu thiệt hại lớn: 1,1 triệu binh sĩ hy sinh. Tính chung, thiệt hại của hai bên trên 2,5 triệu binh sĩ và trận chiến Stalingrad là trận chiến đẫm máu nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Trận chiến Stalingrad đánh dấu bước ngoặt căn bản không chỉ trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại của Liên Xô mà còn trong toàn bộ Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau thất bại ở Stalingrad, phát xít Đức buộc phải rút lui khỏi Bắc Kavkaz, Stavropol, Kuban và thành phố Rostov trên sông Đông. Tên gọi Stalingrad trở thành từ đồng nghĩa với “Chiến thắng”, truyền cảm hứng cho hàng triệu người dân ở các nước bị phát xít Đức chiếm đóng để họ đứng lên tự giải phóng./.

Kỳ 4: Chiến thắng của Liên Xô ở Kursk đập tan lực lượng tăng thiết giáp chủ lực của phát xít Đức

Chủ đề: Giải mã chiến dịch xuyên tạc vai trò quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến đánh bại chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt
25 June 2025
MỚI NHẤT
Đọc nhiều nhất

Trang: 1 2 3 Sau