Giải mã chiến dịch xuyên tạc vai trò quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến đánh bại chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt
Lê Thế Mẫu
Kỳ cuối: Chiến dịch Mãn Châu của Hồng quân Liên Xô góp phần quyết định kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Á
Theo các tài liệu đã được giải mật, tại Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Liên Xô - Anh ở Teheran (tháng 12-1943) và Yalta (tháng 2-1944), Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill khẩn thiết đề nghị Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch Viễn Đông để đánh bại đội quân Quan Đông của Nhật Bản ở châu Á. Joseph Stalin cam kết Liên Xô sẽ thực hiện đề nghị đó của các đồng minh Mỹ và Anh và sẽ mở chiến dịch Mãn Châu sau 3 tháng kể từ khi phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện và kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai trên chiến trường châu Âu.
Ngày 30-6-2007, trong bài nói chuyện tại một trường đại học ở Tokyo, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Fumio Kyuma cho rằng, việc Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống thành phố Hirosima (ngày 6-8-1945) và Nagasaki (ngày 9-8-1945) “có ý nghĩa quyết định buộc Tokyo phải chấp nhận đầu hàng vô điều kiện và ngăn cản Liên xô tuyên chiến với Nhật”.
Cũng theo ông Fumio Kyuma, việc Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử này là “chuyện không thể tránh khỏi” để kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Á - Thái Bình Dương. Tuyên bố của ông Fumio Kyuma không chỉ gây bất bình trong dư luận xã hội Nhật Bản, mà còn phủ nhận một sự thật lịch sử là Liên Xô từng đóng vai trò có ý nghĩa quyết định trong cuộc chiến vô cùng khốc liệt đánh bại phát xít Đức để kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu và đánh bại quân phiệt Nhật Bản để chấm dứt cuộc chiến này ở châu Á.
Một số tờ báo ở Mỹ và các nước phương Tây cũng đăng tải các bài bình luận cho rằng 2 quả bom nguyên tử của Mỹ ném xuống Hirosima và Nagasaki “có ý nghĩa quyết định kết thúc cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu nhất trong lịch sử loài người”. Họ còn cho rằng, Liên Xô không cần tham chiến ở Viễn Đông vì Mỹ và đồng minh hoàn toàn tất sứ mệnh đánh bại quân Nhật!?
Đánh giá bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Fumio Kyuma và nhận định của các báo Mỹ về diễn biến của giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Á, trên cơ sở các tài liệu đã được giải mật, Đại tướng Mahmud Gareev - Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học quân sự Nga - đã có bài viết do Hãng thông tấn Nga Novosti công bố để khẳng định rằng nhận xét sai sự thật đó nằm trong chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc với dụng ý xấu về vai trò của Liên Xô trong cuộc đấu tranh nhằm cứu loài người thoát khỏi hiểm họa của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Theo các tài liệu đã được giải mật, chính Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill trong cuộc gặp nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin tại Hội nghị Teheran (tháng 12-1943) và Hội nghị Yalta (tháng 2-1944) đã khẩn thiết yêu cầu Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch tiến công ở Viễn Đông để đánh bại đội quân Quan Đông của Nhật Bản ở châu Á.
Đáp ứng đề nghị của 2 nhà lãnh đạo Mỹ và Anh, Joseph Stalin cam kết Liên Xô sẽ thực hiện yêu cầu đó của các đồng minh Mỹ và Anh. Tại Hội nghị ở Potsdam (tháng 7-1945) sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu, tân Tổng thống Mỹ Harry Truman cũng khẩn thiết đề nghị Liên Xô tiến hành chiến dịch tiến công đội quân Quan Đông của Nhật Bản.
Tại Hội nghị này, Joseph Stalin thông báo Liên Xô sẽ mở chiến dịch Mãn Châu sau 3 tháng kể từ khi phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện trên chiến trường châu Âu.
Giới quân sự Mỹ và Anh biết rất rõ vì sao Mỹ lại khẩn thiết đề nghị Liên Xô tham chiến với quân Nhật. Tháng 8-1945, quân số của Nhật Bản ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn còn đông tới khoảng 7 triệu người, được trang bị khoảng 10.000 máy bay và 500 tầu chiến. Trong khi đó, quân Mỹ và Anh ở khu vực này chỉ có khoảng 1,8 triệu người, được trang bị khá hiện đại.
Nếu như Liên Xô không tham chiến với quân Nhật thì các lực lượng chủ yếu và thiện chiến nhất của đội quân Quan Đông hoàn toàn có khả năng đánh bại liên quân Mỹ - Anh và trong tình huống đó cuộc chiến ở châu Á - Thái Bình Dương sẽ không chỉ kéo dài 1 tháng, mà ít nhất là 1 hoặc 2 năm với tổn thất mà quân Mỹ và Anh sẽ phải chịu đựng sẽ vượt quá con số 1 triệu người.
Bộ Quốc phòng Mỹ từng khẳng định với Tổng thống Harry Truman về tình huống đó. Bản thân ông H. Truman lúc đầu cũng chưa nhận thức được hết ý nghĩa của việc Liên Xô phải tham chiến chống Nhật, nhưng các tướng lĩnh ở Lầu Năm Góc đã thuyết phục được ông.
Thực hiện cam kết với các nước đồng minh, đêm ngày 8 rạng sáng ngày 9-8-1945, Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch tiến công tuyến phòng ngự của quân đội Nhật Bản ở Mãn Châu. Đúng 0 giờ ngày 9-8-1945 (giờ Viễn Đông), Hồng quân Liên Xô mở đầu chiến dịch Mãn Châu với 76 máy bay ném bom IL-4 của Phương diện quân Viễn Đông số 1 ồ ạt tấn công các mục tiêu quân sự và hậu cần của Nhật Bản tại 2 tỉnh Cáp Nhĩ Tân và Trường Xuân của Trung Quốc.
Đồng thời, máy bay của Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô ném bom các cảng ở phía Bắc Triều Tiên. Hành động của Liên Xô mở chiến dịch Mãn Châu làm choáng váng Bộ Chỉ huy tối cao của Nhật Bản hơn cả tác động của 2 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki.
Chiến dịch tiến công chiến lược của Hồng quân Liên Xô nhằm vào đội quân Quan Đông của quân phiệt Nhật Bản ở Mãn Châu kéo dài từ ngày 9-8-1945 đến ngày 2-9-1945 là một trong những trang sử oai hùng nhất trong lịch sử nghệ thuật quân sự thế giới.
Chiến dịch triển khai với chính diện kéo dài 5.000km, sâu 200 - 800km, trên một chiến trường vô cùng phức tạp gồm địa hình sa mạc, thảo nguyên, đồi núi, đầm lầy, băng tuyết, có nhiều con sông lớn đi qua như sông Amua.
Hồng quân Liên Xô đã đập tan đội quân Quan Đông mạnh nhất và đông nhất của Nhật Bản ở Mãn Châu với hàng triệu người, được trang bị 1.115 xe tăng, 5.360 pháo, 1.800 máy bay chiến đấu và 25 tàu chiến cùng với hệ thống công sự bằng bê tông chằng chịt nối liền với nhau thông qua hệ thống giao thông hào ngầm dưới đất chứa nguồn dự trữ lương thực và nước đủ để hàng triệu binh sĩ chiến đấu liên tục trong nhiều tháng.
Ngày 19-8-1945, Nguyên soái A. M. Vasilevssky đồng ý dùng máy bay Liên Xô đưa Trung tướng Tham mưu trưởng đội quân Quan Đông Hata Hikosaburo, Đại sứ Nhật Bản tại Mãn Châu Miyakawa cùng 7 tướng lĩnh và sĩ quan tùy tùng đến Tổng hành dinh của Liên Xô tại Chita để thống nhất nội dung chi tiết lệnh đầu hàng của Nhật Bản.
Theo thỏa thuận, Nhật Bản phải đầu hàng vô điều kiện và phải giao nộp vũ khí, phương tiện chiến tranh, kho tàng quân dụng trước 12 giờ trưa ngày 20-8-1945, đồng thời được phép sử dụng các phương tiện thông tin và vận tải của Liên Xô, kể cả máy bay, để truyền lệnh đầu hàng đến các đơn vị trực thuộc. Phía Liên Xô cam kết bảo đảm an toàn cho tất cả các tù binh Nhật.
Trong chiến dịch Mãn Châu, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt 84.000 lính và sĩ quan Nhật Bản, bắt làm tù binh khoảng 700.000 tên. Lực lượng của Nhật Bản đầu hàng ở Mãn Châu gồm có 148 tướng, 594.000 sĩ quan và binh sĩ. Liên Xô thu giữ 861 máy bay, 372 xe tăng, 1.434 khẩu pháo, 379 đầu máy xe lửa, 9.129 xe quân sự, rất nhiều kho tàng lương thực, thực phẩm, thiết bị quân sự và quân nhu các loại.
Ngoài ra, Liên Xô còn thu giữ một số tài liệu liên quan đến Đơn vị 731 của đội quân Quan Đông chuyên nghiên cứu phát triển vũ khí sinh học để thử nghiệm trên 10.000 tù binh chiến tranh và dân thường.
Tại Tòa án quốc tế truy tố các tội phạm chiến tranh Nhật Bản ở Khabarovsk, Tosihidz Nisi, một trong các chuyên gia Nhật Bản về vũ khí vi trùng đã khai nhận các tù binh Trung Quốc từng bị quân Nhật sử dụng để thử nghiệm vũ khí sinh học.
Cũng tại tòa án này, Đại tướng Yamada Otozo của Nhật Bản xác nhận do quân đội Liên Xô tiến quân quá nhanh vào Mãn Châu nên họ không kịp sử dụng vũ khí sinh học.
Sau khi lệnh đầu hàng vô điều kiện của Nhật Bản được công bố, quân đội Nhật Bản trên các đảo đều không kháng cự và chờ các lực lượng đổ bộ của Liên Xô đến và giao nộp vũ khí. Do đó, Liên Xô lần lượt tiếp nhận lệnh đầu hàng của Nhật Bản ở các đảo Onekotan và Shasukotan vào ngày 24-8, đảo Matsuwa ngày 26-8, đảo Shimushiru ngày 28-8, đảo Uruppu ngày 31-8.
Liên Xô tiếp quản vùng phía Nam quần đảo Kuril vào ngày 28-8, đảo Kunashiri vào ngày 1-9. Sau khi Nhật Bản chính thức ký kết Hiệp ước đầu hàng vô điều kiện vào ngày 2-9, Liên Xô còn tiếp tục tiếp quản nhóm đảo đá Habomai và chỉ hoàn tất vào ngày 5-9-1945.
Cuộc tiến công chiến lược ở Mãn Châu không chỉ thể hiện sức mạnh ngày càng lớn của Hồng quân Liên Xô tích lũy được trong giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai, mà còn chứng tỏ nghệ thuật quân sự Xô Viết có tính ưu việt với biểu hiện rõ nhất trong chiến dịch cấp tốc cơ động chiến lược 400.000 chiến sĩ và sĩ quan, trên 7.000 pháo và 1.100 máy bay từ mặt trận phía Tây sang phía Đông với sự hỗ trợ của 136.000 toa tầu mà tình báo Nhật Bản không phát hiện được, mặc dù Tokyo có mạng lưới điệp báo rất mạnh ở Viễn Đông.
Khi nhận được tin Bộ chỉ huy Liên Xô mở đầu chiến dịch tiến công quân Nhật vào đêm ngày 8, rạng sáng ngày 9-8-1945, Tư lệnh Tập đoàn quân số 5 của Nhật Bản Yamada kinh ngạc kêu lên: “chỉ có kẻ điên rồ mới quyết định tiến công vào Primorie trong thời tiết mùa thu mưa dầm và mọi con đường đều không thể đi lại được”.
Nhưng Hồng quân Liên Xô đã quyết định tiến công và giành chiến thắng với vô vàn gian khổ và có sự giúp đỡ không nhỏ của lực lượng giải phóng quân Trung Quốc. Do phải sống dưới ách áp bức tàn bạo của quân phiệt Nhật nên khi gặp những đoàn quân giải phóng của Hồng quân Liên Xô, người dân Trung Quốc tình nguyện tham gia cùng kéo pháo, xe tăng và trang thiết bị mắc kẹt trên những đoạn đường lầy lội bùn đất trong thời tiết mưa dầm mùa thu.
Ngày 2-9-1945, trênthiết giáp hạm Missourineo đậu tại Vịnh Tokyo, Bộ trưởng Ngoại giao Mamoru Shigemitsu và Tổng Tham mưu trưởng quân đội Yoshijirô Umezu đại diện cho Nhật Hoàng ký tên vào văn bản đầu hàng vô điều kiện trước sự chứng kiến của đại diện của Liên Xô và các nước đồng minh.
Cùng với sự đầu hàng củaquân Nhật, nhiều nước ở châu Á bị Nhật chiếm đóng đã đứng dậy tự giải phóng và giành độc lập. Cộng hòa Indonesia tuyên bố độc lập ngày 17-8-1945. Philippines được quân đội Mỹ giải phóng, Malaysia được quân đội Anh và Australia giải phóng. Bắc Triều Tiên được Liên Xô giải phóng. Nam Triều Tiên do Mỹ giải phóng. Myanmar, Campuchia, Lào cũng thoát khỏi đô hộ của Nhật Bản.
Ở Việt Nam, sự kiện quân Nhật đầu hàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Việt Minh hoàn thành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám vào ngày 19-8-1945 và giành độc lập cho Việt Nam sau gần 1 thế kỷ phải chịu ách thống trị của thực dân Pháp.
Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình đúng vào ngày kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Á - ngày 2-9-1945.
Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một sự thật lịch sử: từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp. Khi Nhật hàng đồng minh, nhân dân cả nước ta đã đứng lên giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa./.