21/11/2024 | 14:26 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Quốc hội cần đứng trên “mảnh đất thực tiễn Việt Nam” trong công cuộc cải cách thể chế - Kỳ cuối: Không thể lơ là việc giải thích và giám sát thi hành luật

NGÔ TÚ NGÂN* - VŨ VĂN HUÂN**
* Luật sư, làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh - ** Viện Nghiên cứu lập pháp
Quốc hội cần đứng trên “mảnh đất thực tiễn Việt Nam” trong công cuộc cải cách thể chế - Kỳ cuối: Không thể lơ là việc giải thích và giám sát thi hành luật Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp phiên thứ 39 cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi), dự thảo Luật Đầu tư công (sửa đổi), ngày 14-11-2024_Ảnh: TTXVN
Việc Quốc hội cải cách tư duy lập pháp để có thể ban hành những đạo luật, chính sách phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và phù hợp với khoa học lập pháp là bước đầu tiên cần đạt được trong việc cải cách thể chế.

Tuy nhiên, bấy nhiêu đó vẫn là chưa đủ vì nếu chỉ ban hành luật mà thiếu cơ chế giám sát và vai trò giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không được phát huy thì thể chế ấy không thể đi vào cuộc sống, không thay đổi được thực tế nhiều vấn đề cần tháo gỡ trong “thực tại nóng bỏng” của dân tộc trong bối cảnh nhiều biến đổi của thời đại mới.

Phát huy vai trò giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Quá trình áp dụng pháp luật không thể tránh được việc có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau. Đây là nguyên nhân làm nên tính không đồng bộ giữa từng địa phương đối với cùng một vấn đề, gây khó cho người dân và doanh nghiệp. 

Cho nên, để cải thiện tình trạng này, pháp luật cần được giải thích kịp thời để tất cả vào đúng một khuôn khổ thực hiện thống nhất, đồng loạt, tạo ra sự thông thoáng, dễ dàng, tiết kiệm nguồn lực cho người dân và doanh nghiệp.

Vấn đề “giải thích luật” được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1959, tiếp đến là Hiến pháp các năm 1980, 1992, 2013. Trên cơ sở đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, 2008, 2015 đã có quy định và trao thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hiện nay được luật hóa tại Điều 49 của Luật Tổ chức Quốc hội.

Quy định về giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qua gần 50 năm phát triển và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho đến nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới chỉ 2 lần thực hiện thẩm quyền giải thích và cả 2 lần đều là giải thích luật. Vào năm 2005, giải thích một điều khoản của Luật Thương mại về thời hiệu khởi kiện và vào năm 2006, giải thích giá trị pháp lý của “quyết định, chỉ thị”.

Với tần suất giải thích pháp luật rất thấp, cách thức giải thích chủ yếu là ban hành những quy phạm bổ sung thì hoạt động giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa mang lại hiệu quả và xứng tầm như là một cơ quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội.

Việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay, nhất là trong bối cảnh đổi mới quá trình lập pháp và tăng cường thực hiện chức năng của Quốc hội trong công cuộc cải cách thể chế.

Cơ sở pháp lý cho vấn đề này đã được xác lập nên trong thời gian tới chỉ cần tập trung vào việc nâng cao năng lực giải thích của Ủy ban Thường vụ Quốc hội như một công cụ phục vụ đắc lực cho quá trình tăng cường hiệu quả chức năng của mình trong quá trình phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình. 

Quốc hội không họp thường xuyên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan hoạt động thường xuyên và được Hiến pháp trao quyền để giải thích những gì mình đã ban hành cũng là phù hợp với tình hình hiện nay.

Ngoài ra, cần xem lập pháp và giải thích pháp luật không phải là 2 công đoạn rời rạc mà nên là một quá trình có tính liên hệ và hỗ trợ lẫn nhau. Vì hơn ai hết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội là thiết chế hiểu rõ nhất các đạo luật được xây dựng như thế nào. 

Chức năng này sẽ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện hiệu quả hơn thông qua việc giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị giúp việc; đồng thời, tăng cường hiệu quả công tác cho các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian tới để văn bản quy phạm pháp luật được giải thích kịp thời trong trường hợp cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bảo đảm các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật được hiểu, áp dụng và thực thi một cách nhất quán.

Thực hiện chức năng giám sát tối cao trong việc thực hiện pháp luật

Song song với việc cải cách tư duy lập pháp, Quốc hội cần quán triệt và nhận thức đúng đắn về chức năng giám sát của mình như là cơ quan quyền lực cao nhất cần được thực hiện triệt để, tránh làm cho có hình thức, qua loa. Trước quyết tâm cải cách thể chế, tháo gỡ điểm nghẽn, vấn đề giám sát cần được quán triệt rõ ràng rằng, mọi văn bản sau khi được ban hành và có hiệu lực đều phải được theo dõi việc thực hiện.

Sau khi luật được ban hành, Quốc hội phải tiếp tục theo dõi mục tiêu mà Quốc hội đã đề ra được thực hiện hay chưa. Thay đổi tư duy lập pháp để có những đạo luật, chính sách tiên tiến, cởi mở, đổi mới nhưng nếu những nội dung đó không được thực hiện đúng, đồng bộ, triệt để thì công cuộc cải cách chỉ là nói mà không đi đôi với làm. 

Hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát của Quốc hội không phải là 2 hoạt động riêng biệt, rời rạc mà phải xem hoạt động giám sát là một công đoạn gắn liền với quá trình lập pháp là nhằm bảo đảm luật, chính sách của Quốc hội ban hành được thực hiện đúng và đầy đủ.

Để tăng cường hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội cần phải đổi mới hình thức, phương pháp và cách thức tổ chức giám sát của Quốc hội phù hợp với vị trí pháp lý là cơ quan quyền lực cao nhất và điều kiện hoạt động của Quốc hội. 

Đồng thời, bảo đảm tính độc lập, khách quan, công khai, minh bạch trong hoạt động giám sát của Quốc hội thông qua các hoạt động chất vấn tại Quốc hội, phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phiên giải trình tại Hội đồng Dân tộc và Ủy ban của Quốc hội nhằm tăng tính tranh luận, đi sâu phân tích làm rõ vấn đề đưa ra chất vấn; tăng cường giám sát theo chuyên đề, chú trọng chiều sâu và vấn đề hậu giám sát; tiếp tục tổ chức nhiều phiên điều trần tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.

Để việc giám sát có hiệu quả, cần có một cơ sở pháp lý đầy đủ và tiêu chí giám sát cụ thể mới tránh được sự báo cáo qua loa, chỉ thấy kết quả trên bề mặt, kết quả chưa toàn diện. Nên cần hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, nhằm xác định rõ ràng, cụ thể phạm vi, thẩm quyền, đối tượng giám sát của các chủ thể thực hiện quyền này, khắc phục tình trạng chồng chéo, lẫn lộn trong hoạt động của các cơ quan khi thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật.

Về tiêu chí, nội dung giám sát phải bao gồm các tiêu chí cụ thể: sự phù hợp của quy định trong văn bản quy phạm pháp luật với quy định của Hiến pháp, với quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội, với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên cũng như giữa nội dung quy định trong văn bản quy phạm pháp luật này với các văn bản quy phạm pháp luật khác của hệ thống pháp luật phù hợp với thứ bậc của văn bản quy phạm pháp luật.

Tiêu chí giám sát cần bao gồm cả sự thống nhất về kỹ thuật văn bản; tác động của các quy định có dấu hiệu trái pháp luật trong văn bản quy phạm pháp luật (có thể yêu cầu sự tham gia phối hợp của Kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ,... trong trường hợp có tác động về mặt tài chính, biên chế bộ máy...), chi phí để thi hành văn bản đó có hiệu quả không; có chứa đựng các yếu tố “lợi ích nhóm” hay không; văn bản quy phạm pháp luật đó có chứa đựng những yếu tố bất hợp lý, gây bức xúc trong dư luận xã hội hay không và cần thực hiện yêu cầu 3 năm sơ kết, 5 tổng kết kể từ khi văn bản có hiệu lực thi hành đối với luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương tăng cường giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật, hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội là cơ chế để đánh giá tính đúng đắn trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát của Quốc hội. 

Giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đối với văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành còn là phương tiện kiểm soát, ngăn ngừa khả năng lạm dụng quyền lực nhà nước từ phía các chủ thể được pháp luật trao cho những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong hoạt động quản lý đất nước, cũng như trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Thông qua hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật cũng nhằm phát hiện những quy định có bất cập, không phù hợp hoặc mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật để kịp thời yêu cầu sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật, hướng tới mục tiêu cải cách thể chế, tạo động lực cho đất nước phát triển.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lập pháp và giám sát của Quốc hội

Hiện nay, việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong quy trình xây dựng pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật còn tương đối hạn chế. Hầu hết việc ứng dụng công nghệ chỉ được áp dụng vào các hoạt động cơ bản, phục vụ một vài giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật như lấy ý kiến thông qua cổng thông tin điện tử quốc gia hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, việc xử lý các ý kiến góp ý cũng được tiến hành thủ công; sử dụng máy tính để soạn thảo dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản khác trong hồ sơ dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; theo dõi, nghiên cứu tài liệu trên môi trường truyền thống hoặc trên môi trường máy tính thủ công.

Quốc hội có thể xem xét cải cách ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), trợ lý ảo, dữ liệu lớn để áp dụng trong việc soạn thảo, lấy ý kiến, thẩm định, thẩm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật. 

Ứng dụng AI để phân tích dữ liệu và dự thảo văn bản. AI có thể tìm kiếm lượng lớn dữ liệu pháp lý từ các văn bản pháp luật, án lệ, các tài liệu liên quan khác để tìm ra những quy định không thống nhất, chồng chéo, đề ra một số xu hướng xây dựng pháp luật, xây dựng các mẫu dự thảo. 

Điều này giúp các cơ quan chức năng tiết kiệm được thời gian, hiểu rõ vấn đề, tiết kiệm nguồn lực. Ứng dụng AI còn để giám sát việc tuân thủ các quy định pháp luật, phát hiện và cảnh báo sớm về các vi phạm, từ đó giúp ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật kịp thời.

Ứng dụng blockchain (chuỗi khối) để lưu trữ, xây dựng pháp luật có tiềm năng ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, nhờ vào các tính năng đặc biệt như tính minh bạch, an toàn và không thể thay đổi của nó. Blockchain có thể được sử dụng để ghi lại và công khai quá trình xây dựng pháp luật, từ việc soạn thảo đến thảo luận và phê duyệt. 

Mỗi bước trong quá trình này sẽ được ghi nhận trên blockchain giúp công chúng dễ dàng theo dõi, giám sát. Các văn bản pháp luật và các sửa đổi của chúng có thể được lưu trữ trên blockchain, bảo đảm rằng chúng không thể bị thay đổi hoặc làm giả sau khi đã được công bố.

***

Những đạo luật chất lượng cao ra đời dựa trên nghiên cứu thực tiễn đất nước, chính sách phù hợp, thể hiện trình độ lập pháp khoa học, công tác giải thích pháp l`uật linh hoạt kịp thời, công tác giám sát chặt chẽ, không qua loa, hình thức chính là những vấn đề Quốc hội có thể xem xét, tăng cường và hoàn thiện. 

Bảo đảm được những bước đi cải cách trên, việc tạo ra một khung khổ pháp lý hoàn thiện, ổn định sẽ là một tương lai không xa của Việt Nam. Đây cũng sẽ là dấu ấn sáng ngời trong việc mở ra kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.

Chủ đề: Cải cách thể chế
20 November 2024
Tản văn
Những ngày hè cháy khát (11/07/2024 20:35:42)
Nguồn cội… (29/04/2024 10:22:58)
Vết sẹo (17/04/2024 17:02:17)