Phải chăng có một “tự do báo chí” không có giới hạn?
Nguyễn Tri ThứcTS, Tạp chí Cộng sản

1- Ngày 16-1-2025, CPJ - tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại New York, Mỹ - công bố báo cáo “Attacks on the Press in 2024” và thêm một lần nữa, lại là những cái nhìn phiến diện, lệch lạc, bóp méo sự thật, chỉ cố tình tập trung, khoét sâu vào những vụ xử lý vi phạm pháp luật để thổi phồng sai trái.
CPJ đề cập 16 người mà họ chụp mũ là “nhà báo bị đàn áp”, bị giam giữ tại Việt Nam, tính đến ngày 1-12-2024. Rõ ràng, đó là việc quy chụp một cách cố tình, trắng trợn, làm sai lệch bản chất của sự việc!
Trước hết, cần khẳng định việc CPJ công bố báo cáo trên là điều không thể chấp nhận, bởi ngay Hiến chương Liên hợp quốc, Hiến chương các nước châu Mỹ, Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc về việc không được phép can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia và việc bảo vệ độc lập và chủ quyền của quốc gia,... đều chỉ rõ việc không cho phép can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.
Trên thực tế, không chỉ những người từng là nhà báo, mà bất kỳ công dân nào trong cả 100 triệu người dân Việt Nam đều có quyền bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình, cất tiếng nói cá nhân về các vấn đề, lĩnh vực xảy ra trên đất nước mình mà không hề bị ngăn cấm, can thiệp, kiểm duyệt.
Bất kỳ ai cũng có thể đăng tải thông tin, hình ảnh, video,... lên các trang mạng xã hội, điển hình là Facebook, TikTok, YouTube, Instagram,... mà không cần xin phép cơ quan chức năng. Thậm chí, có người là chủ tài khoản của nhiều trang mạng xã hội, đồng thời tham gia trên tất cả trang mạng xã hội nhằm phục vụ mục tiêu khác nhau.
Tuy nhiên phải dựa vào một số nguyên tắc, đó là luật pháp không chấp nhận công dân, người nước ngoài,... sinh sống, làm việc trên đất nước lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận để chủ đích phạm tội “tuyên truyền chống nhà nước”, “xâm phạm lợi ích của nhà nước”,... bằng thông tin sai lệch, kích động chống phá.
CPJ đề cập 16 người mà họ cho là “nhà báo bị đàn áp” bị giam giữ tại Việt Nam, tính đến ngày 1-12-2024. Rõ ràng, đó là việc quy chụp một cách cố tình, trắng trợn, làm sai lệch bản chất của sự việc!
Họ chụp mũ các cá nhân đó là nhà báo theo cách tiếp cận của Luật Báo chí Hoa Kỳ, nhưng lại không hề nhắc đến quy định của quốc gia nơi các cá nhân này là công dân, nghĩa là pháp luật về báo chí của Việt Nam.
Các cá nhân người Việt Nam đó dùng các nền tảng mạng xã hội, Facebook, YouTube, Zalo, TikTok,... để đăng tải các bài viết theo quan điểm cá nhân của họ là hoàn toàn không phù hợp với quan niệm về nhà báo theo luật pháp Việt Nam.
Như vậy, việc CPJ “đánh lận” giữa blogger và nhà báo - hai thuật ngữ hoàn toàn khác biệt, để rồi vu vạ, đặt điều sai trái trong những báo cáo của mình về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam rõ ràng là minh chứng của dã tâm kích động, chống phá Việt Nam!
Cần nói rõ thêm rằng, CPJ được thành lập năm 1981, với tôn chỉ, mục tiêu đặt ra có vẻ rất tốt đẹp, hướng thiện, công bằng: “thúc đẩy tự do ngôn luận trên toàn thế giới thông qua hoạt động bảo vệ quyền đưa tin và nền tự do báo chí trên cơ sở tôn trọng sự thật khách quan”. Nhưng thực tế?
Suốt 44 năm tồn tại, ngày càng thấy rõ sự biến tướng của tổ chức phi lợi nhuận, đặc biệt trong việc tổ chức này bị lũng đoạn nhằm phục vụ mưu đồ chính trị, với nhận xét về các vấn đề lớn thuộc công việc nội bộ của nhiều quốc gia, đặc biệt là nhân quyền, tự do báo chí một cách vô lối, xuyên tạc, áp đặt, thiếu khách quan, công bằng.
Không riêng gì báo cáo công bố đầu năm 2025, ở nhiều bản báo cáo khác của CPJ đều lệch lạc, phiến diện, dã tâm đối với tình hình tự do báo chí tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Ví dụ, ngày 10-2-2008, CPJ ra cái gọi là “Bản phúc trình về tình trạng đàn áp ký giả trên khắp thế giới trong năm 2008”, trong đó có nội dung xuyên tạc Việt Nam đã “đàn áp nhiều ký giả, những người viết nhật ký trên mạng (tức blogger), ngăn chặn mọi trang web hoặc vô cớ bắt giam và thu hồi thẻ nhà báo của một số phóng viên”...
Ngày 14-2-2013, CPJ vu vạ rằng, Việt Nam nằm trong tốp 5 quốc gia cầm tù ký giả nhiều nhất trên thế giới. Theo CPJ, “các nhà báo bị bỏ tù tại Việt Nam chủ yếu vì bị cáo buộc tội “chống phá nhà nước” - một trong những tội danh mà Việt Nam thường dùng để trấn áp những tiếng nói chỉ trích Chính phủ”.
Ngày 8-12-2014, CPJ quy kết rằng, “Chính phủ Việt Nam nên chấm dứt việc sử dụng các đe dọa pháp lý để bịt miệng các blogger độc lập và hãy bắt đầu bảo vệ quyền tự do báo chí được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam”. Đầu tháng 9-2019, CPJ cho rằng Việt Nam nằm trong tốp 10 quốc gia kiểm duyệt báo chí nhiều nhất[1]...
2- Thực tế thì sao? Theo báo cáo công bố hồi tháng 2-2025 của We Are Social - công ty chuyên phân tích mạng xã hội toàn cầu - tính đến tháng 1-2025, có 76,2 triệu người dùng mạng xã hội tại Việt Nam, chiếm 75,2% tổng dân số. Tuy nhiên, dữ liệu này có thể không phản ánh chính xác số lượng cá nhân duy nhất do sự trùng lặp người dùng trên nhiều nền tảng khác nhau.
Điều đó phản ánh rõ thực trạng rằng, kể từ khi hòa mạng intenet toàn cầu vào ngày 1-12-1997, Việt Nam liên tục thiết lập những kỷ lục mới, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, đáp ứng tốt nhất nhu cầu tìm kiếm, trao đổi, thụ hưởng thông tin mọi lúc, mọi nơi, mọi mặt,... của người dân cả trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như truyền thông xã hội.
Người dân Việt Nam có thể truy cập vào tất cả trang web, trang chủ các cơ quan báo chí trên thế giới; có thể bày tỏ mọi suy nghĩ, trăn trở, mong muốn chính đáng, hợp pháp, bảo đảm thuần phong mỹ tục, giá trị nhân văn,... của mình trên mạng xã hội hằng giờ, hằng ngày, thông qua việc viết bài, đăng ảnh, video clip, podcast...
Tại sao ở một quốc gia có số người sử dụng mạng xã hội nằm trong nhóm dẫn đầu thế giới, người dân đăng tải, tiếp cận thông tin tự do, coi đó là kênh thông tin quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống, từ giải trí, học tập,... đến thực hiện các công việc khác nhau, như kinh doanh, phản biện xã hội, chỉ có một số người cố tình đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc? Đơn giản, bởi họ biết chấp hành, tuân thủ pháp luật.
Ấy thế mà CPJ lại cố tình bám vào số ít người vi phạm để bịa đặt, thổi phồng, kích động, chống phá. Rõ ràng, việc lựa chọn góc độ tiếp cận thông tin của CPJ là có vấn đề, với chủ ý thiếu xây dựng, nhằm cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật hoặc do chưa nắm được đầy đủ thông tin. Bởi những người được đề cập trong các báo cáo của tổ chức phi lợi nhuận này đều là các cá nhân vi phạm pháp luật, các thông tin họ đưa ra không liên quan tới hoạt động báo chí, cơ quan báo chí họ từng là thành viên.
Đáng chú ý, không chỉ riêng tự do báo chí, vấn đề tự do ngôn luận ở Việt Nam cũng được quan tâm từ rất sớm, được đề cao, bảo đảm. Chỉ hơn 1 năm sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 9-11-1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp bao gồm 7 chương, 70 điều, trong đó quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.
Từ năm 1956, Sắc lệnh số 282-SL, ngày 14-12-1956, quy định về quyền tự do ngôn luận trên báo chí đã được ban hành... Hiến pháp năm 1959 quy định quyền tự do ngôn luận, báo chí, Hiến pháp năm 1980 quy định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, Hiến pháp năm 1992 quy định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Điều 25 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Trong các luật được ban hành thời gian gần đây, như Luật Báo chí (năm 2016); Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016); Luật An ninh mạng (năm 2018)..., vấn đề tự do ngôn luận luôn được tôn trọng và bảo đảm.
Trong đó, Điều 13 Luật Báo chí (năm 2016) về “Trách nhiệm của Nhà nước đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân” có quy định rõ: “1. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình. 2. Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. 3. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”...
Một sự thật khách quan dễ nhận thấy, dễ kiểm chứng đó là xuyên suốt quá trình hơn 95 năm kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930 - 3-2-2025), Đảng và Nhà nước ta luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, được tôn trọng, bảo đảm. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra chủ trương “Xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”.
Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông (năm 2024), tính ở thời điểm tháng 12-2024, Việt Nam có 884 cơ quan báo chí, trong đó có 812 báo, tạp chí và 72 đài phát thanh - truyền hình. Cũng theo thống kê, cả nước có 41.000 người hoạt động trong lĩnh vực báo chí, khoảng 21.000 nhà báo được cấp thẻ nhà báo.
Ngay cả khi tiến hành sắp xếp, chuyển chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan báo chí trong tổng thể cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tiến hành xong, số lượng cơ quan báo chí, nhân sự làm việc trong lĩnh vực báo chí có giảm đi, nhưng con số thống kê vẫn là rất đáng kể, thấy rõ sự tự do báo chí ở Việt Nam, thể hiện vai trò hết sức tích cực của báo chí trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều này càng ý nghĩa, sáng rõ hơn khi tất cả nhà báo ở Việt Nam đều có quyền hoạt động báo chí trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động báo chí ở nước ngoài theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo hộ trong hoạt động nghề nghiệp; phản ánh khách quan, đa chiều,... trên tất cả lĩnh vực, đóng góp tích cực vào việc định hướng dư luận trước các vấn đề nóng, các vấn đề còn có ý kiến khác nhau, được nhiều người dân quan tâm...
Tất nhiên, trong quá trình hoạt động, không thể tránh khỏi trường hợp vì lợi ích cá nhân, nhóm nhỏ, nhà báo đã vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý hình sự... CPJ phớt lờ, cố tình bỏ qua những thành tựu của nền báo chí cách mạng Việt Nam nhằm thông tin sai lệch rằng Việt Nam “đàn áp báo chí”, làm suy giảm niềm tin của công chúng vào nền báo chí, vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
3- Trên bình diện thế giới, Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết 271A (III), ngày 10-12-1948) khẳng định rõ: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”[2].
Với mỗi quốc gia, dân tộc, sự kế thừa, phát triển, vận dụng, tuân thủ các giá trị của bản Tuyên ngôn có sự khác nhau nhất định, bởi đặc thù về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,... là không giống nhau. Nhưng có một giá trị phổ quát là, các quyền tự do ấy, phải trong khuôn khổ pháp luật, như chính Điều 29 và Điều 30 của Tuyên ngôn quy định[3].
Điều mà ai cũng phải thừa nhận là, một khi thực hiện hành vi vi phạm thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Không một quốc gia nào trên thế giới lại cho phép các thế lực thù địch, phản động, chống phá tự tung tự tác, tác oai tác quái, đặt điều vu khống nói xấu đất nước, chế độ, lãnh tụ.
Không một quốc gia nào lại dung túng hành vi xấu vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, của người dân, ngăn cản, chống phá sự phát triển đất nước, đi ngược lại các giá trị phổ quát của nhân loại về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Như vậy, rõ ràng các văn bản pháp luật của Việt Nam về hoạt động báo chí, về nhà báo đều khẳng định quyền hoạt động báo chí; ghi nhận quyền tự do báo chí của công dân, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với các giá trị phổ quát về quyền con người, quyền công dân được ghi nhận và bảo đảm trong các văn kiện quốc tế.
Đây là điều hiển nhiên, không có gì phải bàn cãi, chỉ đáng tiếc là CPJ chủ đích thu thập thông tin một chiều, từ các tổ chức phản động chống phá Việt Nam, từ những trang mạng xã hội vi phạm pháp luật, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam!
Đó đều là thông tin sai lệch, không khách quan, vi phạm nguyên tắc nghiệp vụ báo chí. Như vậy, thử hỏi CPJ lớn tiếng quy chụp với mục đích gì, ngoài rắp tâm chống phá, lợi dụng danh nghĩa, vỏ bọc để gây sức ép chính trị!
Không dừng lại ở đó, dựa trên những báo cáo hằng năm của CPJ, một tổ chức phi lợi nhuận mang tên Quỹ Nhân quyền (HRF), cũng có trụ sở tại New York (Mỹ), hùa vào vu cáo Việt Nam “đàn áp tự do ngôn luận, tự do báo chí”, vi phạm tự do, dân chủ và nhân quyền.
Vẫn với những luận điệu cũ mèm, vẫn những góc nhìn chủ tâm chống phá, sự khai thác thông tin lệch lạc, HRF trắng trợn công bố những bản báo cáo hết sức sai lệch về tình hình tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.
Thoạt nghe đến cụm từ “đàn áp báo chí” mà các tổ chức phi lợi nhuận này nhắc đến, đã thấy rùng mình vì sự xuyên tạc tráo trở, rắp tâm chống phá.
Vì thế, một lần nữa cần khẳng định lại rằng, các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam coi trọng, bảo đảm thực thi xuyên suốt, nhất quán.
Việc quy định, bảo vệ, bảo đảm các quyền tự do cơ bản của con người ở Việt Nam dựa trên cơ sở pháp luật quốc gia và phù hợp với các giá trị phổ quát về quyền con người, quyền công dân được ghi nhận và bảo đảm trong các văn kiện quốc tế, phù hợp với tình hình thực tiễn chính là động lực của sự nghiệp đổi mới đất nước, có tác động tích cực, đóng góp lớn vào quá trình phát triển của đất nước, nhất là qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành đồng thời cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính; cải cách thể chế; đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển kinh tế tư nhân; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đồng bộ, toàn diện, sâu rộng và hiệu quả..., thông qua việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, báo chí Việt Nam đã phản ánh đầy đủ về tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, cất tiếng nói phản biện về những gì còn chưa hợp lý, giúp Đảng và Nhà nước kịp thời điều chỉnh, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân.
Rõ ràng, những ý kiến hợp lý, xác đáng, vì đất nước của báo chí và người dân trên các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như không gian mạng trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay là hết sức quan trọng, góp tiếng nói đồng thuận, tạo sự thông suốt về tư tưởng, hành động để góp phần tạo nền tảng, bệ phóng vững chắc cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc.
Đó chính là sự đóng góp tích cực của báo chí Việt Nam, như trong suốt 100 năm hình thành và phát triển của nền Báo chí Cách mạng. Đó cũng là những tiếng nói đanh thép phản bác xác đáng, thuyết phục các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch./.
[1] Xem: Nguyễn Tri Thức: “Tự do báo chí và cái nhìn ác ý, dã tâm kích động, chống phá của CPJ”, Báo Đại đoàn kết, ngày 1-10-2019
[2] Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, 1948, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2011, tr. 410
[3] Xem: Nguyễn Tri Thức: “Tự do ngôn luận” hay “ngôn luận tự do” để xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, số 930, tháng 11-2019










Các bài cũ hơn


