Những đảng viên bám đảo
Phạm Học
Vượt sóng
Ông Lộc bồi hồi nhớ lại cái ngày cách đây 47 năm, vào tháng 5-1978, đồng bào dân tộc Hoa ở Cô Tô bỏ đi tứ tán, dân số trên đảo chỉ khoảng còn 10% so với trước đó. Tháng 7 năm ấy, tỉnh Quảng Ninh điều ông cùng 5 đảng viên khác từ đảo Minh Châu đưa dân Minh Châu ra Cô Tô để phát triển nghề cá.
Ông Nguyễn Văn Lộc sinh năm 1936, được kết nạp đảng viên Đảng Lao động Việt Nam năm 1964, nguyên Chủ nhiệm Hợp tác xã Nghề cá Minh Châu, nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Minh Châu, là đảng viên cao tuổi nhất ở Cô Tô từ trước đến nay.
Ông Lộc vốn sinh ra, lớn lên ở Minh Châu, làm nghề vận tải biển, nghề đánh cá. Ông Lộc còn nhớ rõ như in vào ngày 25/6/1978, lúc đó đang là Phó Chủ tịch xã, Chủ nhiệm HTX Nghề cá Minh Châu, thì nhận được lệnh cùng 5 Đảng viên khác đưa đoàn ra Cô Tô tiếp quản nghề cá người Hoa về nước còn bỏ dở. Lúc đó, phát huy tinh thần Đảng viên đi trước, dân đi sau, họ dẫn dắt cả thảy có 32 hộ dân với 131 nhân khẩu.
6 đảng viên sang Cô Tô năm đó gồm ông Lộc, ông Bùi Văn Vịnh là Chủ tịch xã, ông Vương Văn Dượng, ông Nguyễn Văn Ung, ông Vương Văn Khai và ông Nguyễn Văn Điều. Lúc đó đảng viên rất ít mà cứ phải cử đảng viên, ra đảo vì Đảng viên là người chuyển tải chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đến với nhân dân, đặc biệt có ý nghĩa với dân mới ra làm kinh tế trên đảo.
Nói là nói vậy chứ khi dắt theo vợ và đàn con sang đảo lạ nước lạ cái, ông Lộc cũng không khỏi hoang mang. Là người đi biển nhưng ông Lộc cũng chỉ biết mang máng rằng, thời phong kiến, Cô Tô từng nhiều lần bị giặc biển hoành hành. Có thời gian người Pháp lại chiếm đóng Cô Tô. Mãi đến cuối năm 1955, quân Pháp mới rút khỏi Cô Tô.
Sau đó, có thời gian, Cô Tô là xã thuộc huyện Móng Cái, rồi lại là xã đặc biệt trực thuộc tỉnh Quảng Ninh. Hơn chục năm trước đó, Cô Tô vinh dự được đón Bác Hồ ra thăm đảo. Mọi thông tin cụ thể có lẽ ông chưa rõ nhưng có một điều ông Lộc chắc mẩm rằng, Cô Tô phải là phên giậu, là tiền đồn bảo vệ cho đất liền. Muốn giữ nhà thì phải rào giậu cho chắc. Các cụ ta xưa đã dạy thế.
Thuyền chở ông Lộc và các đồng chí cập vào bờ nhưng phải ở tạm bãi biển dựng lán trại để chờ được phân nhà làm chỗ ở. Những ngày sau đó, các ông đã có thêm những người hàng xóm ở Bản Sen, Quan Lạn, rồi đảo Trà Ngọ sang nữa.
Dù vậy, nhưng Cô Tô lúc đó vắng lặng, thưa thớt vài nóc nhà. Bãi biển hoang sơ đầy dứa dại. Nhiều khi, vợ con ông Lộc có khi không dám ra đường một mình vì sợ. Đường sá đi lại thì nhỏ bé, lầy lội, toàn đường đất hoặc là bờ ruộng khoai. Nhìn đâu cũng thấy cát là cát. Mỗi lần, có bão là lo lắng vô cùng. Nhà mấy lần bị bão hất tung mái. Sau bão phải tốn tiền tốn công lợp lại.
Có túp lều che mưa nắng rồi thì ông Lộc phải nghĩ đến cái ăn. Nhất là không được để vợ con mình đói. Ông nghĩ mình là đảng viên đưa vợ con sang chỗ mới mà khổ hơn là không được. Quyết không thể được. Nghĩ vậy, ông và đồng nghiệp quyết tâm vực dậy nghề cá. Những người dân Cô Tô đầu tiên như ông Lộc lại tiếp tục đánh cá.
Ông được cử làm Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã Nghề cá Cô Tô. Ông đánh cá khắp vùng biển này, thậm chí sang cả khu vực đảo Bạch Long Vĩ. Cá sẵn nhưng lương thực ít. Và cũng không ai ăn cá thay cơm được. Chúng tôi bắt đầu cấy lúa, trồng khoai. Mỗi lao động đánh cá của hợp tác xã lại được phân phối gạo mỗi tháng 21kg/người. Khoai và lúa đến mùa được gặt nên thực ra ở đảo không có ai phải đói ngày nào.
Ông Lộc thú thực có lúc gian khó tưởng chừng phải bỏ Cô Tô mà về đất liền. Ấy thế nhưng nghĩ mình là đảng viên nên cần cố gắng bám trụ với đảo. Gần nửa thế kỷ ấy, ông Lộc dõi theo Cô Tô từng bước đi lên.
Trong 30 năm qua, kể từ khi thành lập huyện, ông tham gia Hội đồng nhân dân xã Cô Tô, rồi sau đó làm đại biểu Hội đồng nhân dân huyện 2 khóa liên tiếp. Mỗi đợt họp Hội đồng nhân dân huyện, ông đều theo dõi, dù có làm đại biểu hay là đã nghỉ hưu rồi.
Đảng viên nơi “đầu sóng, ngọn gió”
Chuyện của ông Lộc kể về 30 năm trước cũng lại là chuyện của một nhóm đảng viên khác ra xây dựng huyện đảo. Ấy là vào năm 1994, xã Cô Tô tách ra khỏi Cẩm Phả huyện để thành lập huyện Cô Tô. Tiếp nối những đảng viên đầu tiên ra Cô Tô như ông Lộc, khi thành lập huyện, toàn bộ lãnh đạo cốt cán lúc đó đều được điều từ huyện Vân Đồn ra.
Trong đoàn ra năm đó có ông Nguyễn Thanh Sửu. Ông Sửu cũng người đầu tiên làm Bí thư Huyện ủy Cô Tô, nhớ lại thời điểm 30 năm về trước (năm 1994): “sau mấy ngày suy nghĩ, tôi vạch ra kế hoạch về Cô Tô rồi lên báo cáo Thường trực Tỉnh ủy. Sau khi nghe xong, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy động viên: “rất khó khăn đấy nhưng tỉnh cần đồng chí có mặt ở nơi đầu sóng, ngọn gió...”.
Tôi cũng nói thêm: “các anh ủng hộ tôi nhé”. “Đồng ý”, anh Nguyễn Bình Giang - Bí thư Tỉnh ủy khi ấy - nói. Anh ôm tôi rồi nói thêm: “ở đó có tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tuy còn mỏng nhưng còn hơn 2.000 dân trông đợi các đồng chí”. Tôi nghĩ, vậy mình phải bám cơ sở và biết dựa vào dân là thành công.
Ngày 19-7-1994, ông Sửu cùng 16 cán bộ huyện đầu tiên, trong đó có 1 nữ, được tỉnh điều động ra đảo Cô Tô công tác trên một con tàu gỗ. Sau hơn 5 giờ lênh đênh, đoàn đến Cô Tô vào đúng trưa.
Khi đó, huyện Cô Tô còn chưa có cảng cập tàu, các chuyến tàu ra đảo đều đỗ ở bãi biển trước tượng Bác. Tàu ra đến nơi là cả bộ đội và nhân dân cùng xắn quần lội ra biển để bốc dỡ hàng hóa lên bờ cho an toàn, bãi biển và đường mòn toàn cát nóng làm chân ai cũng bỏng rộp.
Những năm đó, việc đi lại giữa đảo và đất liền gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khi thời tiết xấu. Mỗi tuần, chỉ có 2 chuyến tàu gỗ ra và vào. Tàu chở khách kèm theo hàng hóa, lương thực, thực phẩm, thư báo, có nhiều hôm chở thêm cả gia súc, gia cầm.
Những lúc sóng to nước tràn cả vào khoang tàu, mọi người đều ướt hết, hàng hóa, thư báo cũng dính đầy nước mặn. Thậm chí trước kia, khi chưa có bến cảng gặp hôm gió to, biển động, cán bộ và nhân dân phải lội nước hoặc bơi từ thuyền vào huyện khổ cực vô cùng.
Trăn trở để tìm hướng giải quyết khó khăn trên, ông Sửu cùng tập thể lãnh đạo huyện đã họp bàn và thống nhất chủ trương phải sớm xây dựng cầu cảng; kêu gọi, thu hút thêm tư nhân đóng những tàu khách có sức chở lớn, thời gian di chuyển nhanh từ đất liền ra Cô Tô. Những chủ trương đúng đắn cùng với việc vận hành quyết liệt đã làm bộ mặt huyện Cô Tô đổi thay nhanh chóng.
31 năm trước, ông Sửu làm Bí thư Huyện ủy rồi kiêm chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đến 10 năm, từ năm 1994 đến 2004. Từ năm 2010 đến nay, huyện tiếp tục thực hiện mô hình bí thư đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp và mô hình này đã được tỉnh nhân rộng.
Từ một huyện đảo “5 không” (không đường, không điện, không trường, không trạm xá, không công trình văn hóa), Cô Tô đã phát triển nhanh chóng không còn là đảo trơ trọi giữa trùng khơi.
Từ khi điện lưới quốc gia về đến đảo, đời sống của bà con văn minh hơn. Bà con trên đảo sống với nhau nghĩa tình, bảo ban nhau làm ăn, giữ gìn môi trường sống, không dùng túi nilon, quyết tâm xây dựng hình ảnh đẹp để thu hút khách du lịch. Đảng và Nhà nước quan tâm sâu sắc đến nhân dân trên đảo. Nhân dân ấm no hạnh phúc tin tưởng theo Đảng tuyệt đối.
Một đô thị đảo sầm uất đang dần hiển hiện ra trước mắt ông Lộc đó thôi. Bờ ruộng năm nào đã thành đường nhựa, đường bê-tông rộng lớn, bãi cát đã mọc lên khách sạn cao tầng, nhà dân nào cũng kiên cố chẳng còn sợ gió bão. Xe cộ đầy đủ cả những xe điện, xe ô tô hiện đại. Đường thông, hè thoáng dễ đi lại.
Huyện đảo thay đổi diện mạo từng ngày. Nhà cửa khang trang. Âu tàu rồi khu dịch vụ hậu cần nghề cá hiện đại. Tàu cao tốc ra đảo cũng nhiều hơn, thuận tiện hơn, nhanh hơn. Chỉ hơn tiếng là ra đến nơi. Dân các nơi ở đâu đến đây làm ăn đều được hỗ trợ. Khách du lịch đông hơn và cũng được bảo đảm an ninh an toàn tuyệt đối. Càng mừng vui hơn khi Cô Tô sắp trở thành một đặc khu.
Những năm cuối đời, chiều chiều ông Lộc lại ngồi nhìn ra chỗ ngã tư nơi 2 con phố giao nhau tấp nập du khách qua lại nói cười, hồi tưởng lại những năm tháng xa xưa, ông Lộc không khỏi mừng vui trong lòng. Tôi thầm nghĩ, nếu ông Lộc có là một nhà văn chuyên viết tiểu thuyết viễn tưởng thì vào năm 1978 ấy, ông có đặt bút cũng khó mà vẽ ra được hình hài Cô Tô như hôm nay.
Ông Lộc chịu ơn mảnh đất Cô Tô, biển Cô Tô vì nơi đây chẳng những cho ông cá tôm mà còn cho ông tất cả. Ông có nhà, có vợ, có con cháu đầy đàn. Đảo giữ chân người thì đúng rồi nhưng chỉ có thể giữ chân những người muốn ở lại, giữ chân những con tim thực lòng yêu đảo, thuộc về đảo.
6 đảng viên năm ấy đã lần lượt về bên kia thế giới trước ông Lộc. Trời thương để cho ông sống đến tận tuổi 90 và còn sống và sống mạnh khoẻ là khác. Những năm cuối đời, mỗi khi trời yên biển lặng, ông vẫn vác lưới ra đánh gần bờ kiếm vài con cá, cải thiện bữa ăn gia đình. Ông ra biển đánh lưới không chỉ vì kiếm cá mà đi cho thỏa nỗi đam mê từ thơ bé, cho thỏa tình yêu biển của mình.
Khi tôi đặt bút viết những dòng này, ông Nguyễn Văn Lộc vừa từ giã cõi thế chưa lâu. Chắc ở nơi xa thẳm, linh hồn ông đã về với biển cả bao dung, về với không gian lồng lộng gió trời và sóng biếc. Về với những luồng cá ngoài khơi xa. Nhưng mồ hôi và nước mắt của ông và những đảng viên thế hệ ông, tình yêu tha thiết đảo nhỏ tiền tiêu thì vẫn còn ở lại với Cô Tô. Một tình yêu biển đảo đến vô bến, vô bờ./.









Các bài cũ hơn

