Tăng trưởng kinh tế năm 2025 - mục tiêu cao, quyết tâm lớn, hành động quyết liệt - Kỳ 2: Kích hoạt các động lực tăng trưởng mới - giải pháp then chốt
Ngô Trí LongPGS, TS, chuyên gia kinh tế, Trường Đại học Thành Đông

Ba trụ cột tăng trưởng kinh tế: Đầu tư công - tiêu dùng nội địa - xuất khẩu
Đầu tư công - “vốn mồi” thúc đẩy tăng trưởng
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính), năm 2025, đầu tư công tiếp tục giữ vai trò đầu tàu thúc đẩy tăng trưởng. Chính phủ đặt mục tiêu giải ngân 100% kế hoạch vốn, tương đương 875.000 tỷ đồng, tăng 37,7% so với năm 2024.
Tuy nhiên, đến ngày 30-4-2025, mới giải ngân được 128.512,9 tỷ đồng, đạt 15,56% kế hoạch, thấp hơn cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính do phân bổ vốn chậm (khoảng 27.800 tỷ đồng chưa phân chi tiết, tính đến giữa tháng 3-2025), thủ tục hành chính còn rườm rà và thiếu vật liệu tại các dự án trọng điểm.
Giải pháp đặt ra là đẩy mạnh phân cấp gắn trách nhiệm người đứng đầu; minh bạch hóa tiến độ qua hệ thống trực tuyến; thúc đẩy hợp tác công - tư, đặc biệt trong kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục và chuyển đổi số; cải cách thể chế, tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý. Hiệu quả đầu tư công sẽ tạo xung lực phục hồi kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu bền vững.
Tiêu dùng nội địa - củng cố từ thu nhập và niềm tin
Tiêu dùng tiếp tục là động lực quan trọng trong nền kinh tế hơn 100 triệu dân. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 9,6% trong năm 2023. Tuy nhiên, sức mua còn yếu do thu nhập thực tế chưa theo kịp giá cả.
Để kích cầu bền vững, cần tăng chi cho an sinh xã hội, phát triển nhà ở xã hội; mở rộng bảo hiểm tự nguyện; thúc đẩy tín dụng tiêu dùng - hiện chiếm gần 20% tổng dư nợ; đầu tư kết cấu hạ tầng thương mại hiện đại và thương mại điện tử - hiện mới chiếm 25% tổng bán lẻ, thấp hơn nhiều so với Thái Lan (40%) hay Malaysia (60%).
Việt Nam đứng thứ 5 toàn cầu về mức độ lạc quan tiêu dùng (NielsenIQ, 2024). Duy trì ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát dưới 4% và bảo đảm việc làm là nền tảng quan trọng để tăng tiêu dùng nội địa.
Xuất khẩu - trụ cột chiến lược
Theo Cục Hải quan (năm 2025), năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm 2023; xuất siêu đạt 24,77 tỷ USD, ghi dấu năm thứ 9 liên tiếp thặng dư thương mại. Ba điểm sáng nổi bật xuất khẩu công nghệ cao đạt 132 tỷ USD, chiếm 32% tổng kim ngạch, nhờ tận dụng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu.
Kim ngạch xuất khẩu qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới tăng mạnh. Tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo chiếm gần 85% tổng kim ngạch, với 36 mặt hàng vượt mốc 1 tỷ USD; riêng ngành nông sản chế biến đạt 62,4 tỷ USD. Xuất khẩu tiếp tục đóng vai trò then chốt trong củng cố nền tảng tăng trưởng, nâng cao vị thế kinh tế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Những lĩnh vực mũi nhọn tạo đột phá phát triển bền vững
Chuyển đổi số - động lực nền tảng thúc đẩy hiện đại hóa quốc gia
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chương trình chuyển đổi số quốc gia giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, được triển khai với 3 trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; lấy dữ liệu làm trung tâm, người dân làm chủ thể.
Đến cuối năm 2024: 100% số dịch vụ công mức độ 4 đã được tích hợp trên Cổng dịch vụ công quốc gia; hơn 55% số người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến (Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2024); giao dịch không dùng tiền mặt tăng 58,5% về số lượng, 36,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023 (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
Hạ tầng số tiếp tục được mở rộng, với 99,8% dân số được phủ sóng 4G/5G và 81% số hộ gia đình có Internet băng rộng cố định. Việt Nam hiện có khoảng 1,2 triệu lao động công nghệ thông tin, trong đó 500.000 người làm việc trong lĩnh vực phần mềm và dịch vụ.
Phát triển năng lượng tái tạo, giao thông điện hóa và sản xuất xanh
Năng lượng tái tạo chiếm 26,5% tổng công suất điện quốc gia (22.648 MW/85.335 MW vào cuối năm 2024), trong đó điện Mặt trời mái nhà đạt hơn 7,4 GW. Triển khai Quy hoạch điện VIII là cơ sở để khắc phục điểm nghẽn về lưới điện và cơ chế giá. Giao thông điện hóa từng bước phát triển với các dự án xe buýt điện và xe cá nhân. Kết cấu hạ tầng trạm sạc vẫn còn hạn chế, cần chính sách khuyến khích rõ ràng để thúc đẩy tiêu dùng.
Sản xuất xanh là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trước yêu cầu của các thị trường lớn về tiêu chuẩn môi trường (Liên minh châu Âu, Mỹ). Ứng dụng công nghệ sạch giúp giảm chi phí năng lượng, đồng thời mở rộng cơ hội xuất khẩu.
Công nghiệp chế biến, chế tạo - đầu tàu tăng trưởng
Trong 4 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,4%; riêng ngành chế biến, chế tạo tăng 10,1%, đóng góp 8,5 điểm phần trăm vào tăng trưởng chung. Một số ngành tăng mạnh gồm sản xuất ô tô: +35,1%; sản xuất da: +16,7%; sản phẩm cao su, plastic: +16,4%; trang phục: +15,7%; gỗ và sản phẩm từ gỗ: +15,2%; thiết bị điện tử và máy tính: +9,8%.
Xây dựng chuỗi giá trị công nghệ cao trong nước
Ngành điện tử, bán dẫn: Việt Nam là nhà cung cấp chip lớn thứ ba tại châu Á cho thị trường Mỹ, chiếm trên 10% lượng chip Mỹ nhập khẩu. Intel, Samsung là những tập đoàn FDI chủ lực trong lĩnh vực này.
Ngành dược phẩm và thiết bị y tế: chi tiêu y tế năm 2025 dự kiến đạt 23,3 tỷ USD (240 USD/người). Việt Nam đẩy mạnh phát triển chuỗi cung ứng nội địa để giảm lệ thuộc nhập khẩu.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) công nghệ cao - nâng tầm công nghiệp Việt Nam
Năm 2024, Việt Nam thu hút 38,23 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký (+3%), trong đó giải ngân đạt kỷ lục 25,35 tỷ USD (+9,4%). Đầu tư vào công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 81,4%, tương đương 20,62 tỷ USD.
Các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai và thủ tục đang tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trung - dài hạn vào công nghệ cao. Việt Nam đang đứng trước cơ hội chiến lược để bứt phá bằng các lĩnh vực mũi nhọn: chuyển đổi số, năng lượng tái tạo, công nghiệp chế biến, công nghệ cao và thị trường carbon.
Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và bao trùm, cần có sự đồng bộ về chính sách, nhân lực và đầu tư, đồng thời phát huy vai trò chủ thể của doanh nghiệp và người dân trong công cuộc hiện đại hóa đất nước.
Cải cách thể chế - nền tảng đột phá thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững
Cải cách thể chế là yêu cầu cấp thiết nhằm tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý, đẩy mạnh chuyển đổi số và phát huy hiệu quả khu vực kinh tế tư nhân, qua đó tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Muốn vậy, cần:
Một là, tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý và đẩy mạnh số hóa hành chính, tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế tư nhân
Chính phủ đặt mục tiêu số hóa toàn diện thủ tục hành chính theo Quyết định số 240/QĐ-TTg, ngày 4-2-2025. Tuy vậy, theo Bộ Thông tin và Truyền thông (năm 2024), chỉ 65% số doanh nghiệp có thể hoàn thành thủ tục trực tuyến mà không cần hỗ trợ, thấp hơn nhiều so với mức trên 90% tại Singapore, Malaysia.
Chỉ số hài lòng của người dân năm 2024 đạt 83,94% (Bộ Nội vụ), tăng nhẹ so với năm 2023. Tuy nhiên, khoảng 18% số doanh nghiệp vẫn phản ánh tình trạng chi phí không chính thức trong quá trình thực hiện thủ tục.
Tính đến cuối năm 2024, theo Tổng cục Thống kê, Việt Nam có khoảng 940.000 doanh nghiệp, trong đó 98,9% là doanh nghiệp tư nhân, đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách và tạo ra hơn 40 triệu việc làm.
Chính phủ triển khai các chính sách hỗ trợ tiếp cận vốn, đất đai và thông tin thị trường cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, thông qua Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và Luật Đất đai 2024. Các chính sách bao gồm quỹ bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất, ưu tiên sử dụng đất tại khu công nghiệp.
Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, xác định khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng xanh. Khoảng 5 - 7% trong tổng số startup hiện nay hoạt động trong lĩnh vực phát triển xanh.
Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, thiếu nhân lực chuyên sâu về kinh tế tuần hoàn, công nghệ vật liệu mới và quản lý carbon.
Hai là, thu hút hiệu quả dòng vốn đầu tư FDI thế hệ mới
Năm 2024, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam thu hút 38,23 tỷ USD FDI, giải ngân 25,35 tỷ USD - mức cao nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, chỉ khoảng 5% nguồn vốn FDI vào công nghệ cao, cho thấy cần định hướng chiến lược mới.
Thông tư số 08/2024/TT-BKHCN, ngày 6-11-2024, của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, quy định tiêu chí cụ thể cho dự án công nghệ cao: ít nhất 80% doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao, tuân thủ tiêu chuẩn môi trường quốc tế (ISO 14000), ưu tiên nghiên cứu và phát triển (R&D) và sản xuất sạch.
Chính phủ cam kết cải cách hành chính không làm chậm phê duyệt dự án. Luật Đầu tư năm 2020 và Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, tạo khung pháp lý ổn định cho nhà đầu tư.
Để đáp ứng yêu cầu nhân lực cho các dự án công nghệ cao, Việt Nam đang triển khai đào tạo 50.000 kỹ sư thông qua liên kết với 36 trường đại học, đồng thời thành lập 4 trung tâm nghiên cứu chip tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, các động lực tăng trưởng mới, như chuyển đổi số, kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo và cấu trúc lại chuỗi cung ứng đang mở ra cơ hội chiến lược để Việt Nam phục hồi và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, việc tận dụng hiệu quả các cơ hội này đòi hỏi nền tảng thể chế và năng lực điều hành chính sách đủ mạnh, linh hoạt, gắn với cơ chế giám sát - đánh giá hiệu quả. Đây chính là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm tăng trưởng thực chất và bền vững./.
Kỳ cuối: Hướng tới phát triển bền vững và bao trùm
MỚI NHẤT
Các bài cũ hơn




