Phát triển đô thị trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ
Nguyễn Thanh NghịỦy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng
Kết quả song hành cùng thách thức
Vùng Đông Nam Bộ có dân số khoảng 18,3 triệu người, chiếm 22% dân số cả nước, trong đó có tới 14,9 triệu người ở khu vực đô thị, đạt tỷ lệ đô thị hóa 67,3% - cao nhất trong các vùng kinh tế - xã hội của cả nước, cao hơn nhiều so với tỷ lệ đô thị hóa bình quân chung cả nước (năm 2022 là 41,5%). Hệ thống đô thị vùng Đông Nam Bộ được phát triển và phân bố tương đối hợp lý, từng bước hình thành sự liên kết mang tính hệ thống giữa các đô thị trong vùng. Chất lượng đô thị tại vùng Đông Nam Bộ về tổng thể không ngừng được nâng lên, góp phần nâng cao chất lượng sống của người dân. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội được quan tâm đầu tư hoàn chỉnh, cơ bản đáp ứng yêu cầu của người dân đô thị. Đến năm 2021, vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ nhà ở kiên cố và bán kiên cố đạt 98,4%. Tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch đạt 94%. Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đạt 95%.
Tuy nhiên, vùng Đông Nam Bộ đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức làm hạn chế tiềm năng, thế mạnh và sự phát triển đô thị (PTĐT). Đó là: (1) Tốc độ tăng trưởng dân số cơ học nhanh, mật độ dân số đô thị lớn, tạo sức ép rất lớn cho hạ tầng kỹ thuật và việc giải quyết các vấn đề về nhà ở, y tế, giáo dục, an sinh xã hội; (2) Hạ tầng giao thông liên tỉnh (đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa) chưa được đầu tư đồng bộ, các tuyến đường vành đai quan trọng chưa được tập trung đầu tư, khép kín, hạ tầng giao thông đô thị được quan tâm đầu tư song chưa đáp ứng nhu cầu và còn có sự chênh lệch giữa các tỉnh, thành phố; (3) Thách thức của biến đổi khí hậu ngày càng rõ, hiện tượng thời tiết cực đoan, đặc biệt là tình trạng ngập lụt do triều cường, xâm nhập mặn,... xuất hiện ngày càng nhiều, trong khi hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa đáp ứng nhu cầu đặt ra. Việc kiểm soát khai thác nước ngầm, thu gom và quản lý nước thải, chất thải rắn, kiểm soát ngập lụt còn mang tính cục bộ. Công tác quản lý ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp và đô thị còn gặp khó khăn; (4) Mối quan hệ vùng, liên vùng chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Các thể chế, chính sách liên kết cũng như hệ thống giải pháp, hình thức tổ chức quản lý trên phương diện vùng và liên vùng chưa được quan tâm, nghiên cứu nhiều, chưa xây dựng được chính sách tổng thể về liên kết vùng.
Lãnh đạo Bộ Xây dựng và tỉnh Bình Dương tham quan mô hình nhà ở xã hội trong lễ khởi công xây dựng dự án nhà ở xã hội An Sinh tại phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương_Ảnh: thanhnien.vn
Một số nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới
Trong bối cảnh phát triển của vùng Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay có nhiều thuận lợi và thách thức đan xen, PTĐT luôn được coi là động lực của phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Ngày 7-10-2022, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW, về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ về PTĐT vùng Đông Nam Bộ theo Nghị quyết số 24, Bộ Xây dựng xác định, cần tổ chức thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ từ định hướng quy hoạch và phát triển không gian kinh tế đô thị, đến ưu tiên tập trung đầu tư phát triển hạ tầng đô thị và nhà ở, khai thác lợi thế để phát triển hạ tầng đồng bộ, ứng dụng các giải pháp thông minh đi đôi với nghiên cứu, hoàn thiện thể chế chính sách. Cụ thể như sau:
Về quy hoạch, định hướng phát triển hệ thống đô thị, phân vùng chức năng và tố chức các không gian kinh tế đô thị
Phát triển vùng với mô hình tập trung - đa cực, bảo đảm sự thống nhất, cân bằng trong phát triển vùng và thích ứng với những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Phát huy vai trò của các vùng đô thị lớn, đô thị lớn, trục hành lang kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, hình thành các cực tăng trưởng quốc gia có tính cạnh tranh quốc tế, kết nối thuận lợi với các đô thị lớn trong khu vực và trên thế giới; phát triển bền vững về môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng; PTĐT theo các đầu mối giao thông lớn, phát triển các đô thị vệ tinh kết nối thuận lợi với các trung tâm với hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, giảm tải cho các đô thị lớn, đô thị trung tâm, các cực tăng trưởng. Hạn chế mở rộng PTĐT trên diện rộng, đặc biệt tại các khu vực chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Xây dựng và phát triển các cực tăng trưởng tại các đô thị trọng điểm tại các vùng có địa hình cao trên các trục hành lang kinh tế trọng điểm, các tuyến đường vành đai quan trọng và ở khu vực ngoại vi. Hình thành hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại và các công trình hạ tầng cấp vùng; tập trung phát triển hệ thống giao thông đường bộ, mạng lưới đường sắt đô thị nội vùng nhằm tăng cường kết nối vùng đô thị trung tâm và các cực tăng trưởng. Duy trì và bảo vệ các vùng sinh thái, cảnh quan tự nhiên đặc trưng, nguồn nước và các hành lang xanh trong vùng.
Phát triển có trọng tâm, trọng điểm việc xây dựng hệ thống đô thị ven biển của vùng trở thành các trung tâm kinh tế trên địa bàn vùng, là các hạt nhân lan tỏa thúc đẩy phát triển kinh tế của cả vùng và các vùng lân cận. Tập trung đầu tư nâng cao chất lượng đô thị, cấu trúc đô thị hài hòa với cảnh quan tự nhiên, ưu tiên hình thành các vùng không gian xanh. Sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, hạn chế phát triển theo mô hình đô thị lan tỏa. Kiểm soát chặt chẽ quá trình đô thị hóa. Quan tâm định hướng, có giải pháp quản lý các khu vực đô thị hóa.
Các nội dung trên cần được cập nhật, cụ thể hóa trong quá trình lập Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, cũng như các quy hoạch tỉnh đang được lập tại các tỉnh, thành phố trong vùng.
Về chính sách phát triển nhà ở, công trình xã hội
Nhu cầu nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội tại vùng Đông Nam Bộ là lớn nhất cả nước. Do đó, cần đưa các chỉ tiêu về phát triển nhà ở, trong đó có chỉ tiêu bắt buộc về phát triển nhà ở xã hội vào hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, hằng năm của các tỉnh trong vùng; cần quy định quy hoạch, bố trí quỹ đất phát triển nhà ở xã hội, nhà lưu trú công nhân theo hướng khi lập, phê duyệt quy hoạch khu công nghiệp phải bố trí quỹ đất để làm nhà lưu trú, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng phục vụ người lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đó. Coi nhà ở công nhân là một hạ tầng thiết yếu của các khu công nghiệp. Điều này đòi hỏi các địa phương phải bố trí nguồn lực và triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đổi mới phương thức, mô hình quản lý và phát triển nhà ở xã hội, đặc biệt là nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp.
Nâng cấp, cải tạo, xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng xã hội hiện đại tại đô thị và mạng lưới cung cấp dịch vụ hạ tầng xã hội. Thực hiện lồng ghép các mục tiêu và định hướng phát triển hệ thống công trình dịch vụ hạ tầng xã hội và nguồn lực thực hiện vào quá trình lập và phê duyệt chương trình PTĐT. Tiếp tục có chính sách khuyến khích, ưu đãi đặc biệt về thuế đối với các dự án cung cấp dịch vụ xã hội đô thị ở các khu kinh tế, các vùng công nghiệp lớn.
Về đầu tư, phát triển hệ thống hạ tầng đô thị, PTĐT thông minh, hiện đại, quản lý đô thị
Nghiên cứu, thực hiện đầu tư có trọng tâm trọng điểm các đô thị có khả năng chống chịu, giảm phát thải, đô thị xanh, thông minh, có bản sắc và hoàn thiện hạ tầng đô thị, trong đó chú trọng và ưu tiên thực hiện đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội các đô thị theo quy chuẩn quy định, ưu tiên thực hiện các lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị gồm: cây xanh đô thị, giao thông đô thị, thoát nước và xử lý nước thải sinh hoạt, chất thải rắn đô thị. Đầu tư các dự án hạ tầng kỹ thuật đầu mối, các dự án cấp nước, xử lý nước, rác thải liên vùng theo quy hoạch vùng. Đầu tư khép kín các đường vành đai, đường xuyên tâm, hệ thống giao thông công cộng đồng bộ.
Đến năm 2025, hoàn thiện các tiêu chuẩn đô thị về kết cấu hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng về y tế, giáo dục, đào tạo và công trình văn hóa cấp đô thị của các đô thị loại III trở lên. Đến năm 2030, cơ bản giảm thiểu tình trạng ngập úng và ùn tắc giao thông; cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ gắn với cải tạo, chỉnh trang đô thị; cải tạo chỉnh trang các khu dân cư ven kênh rạch gắn với tái định cư; hình thành mới các trục không gian cảnh quan kiến trúc đặc thù của đô thị; bảo tồn, tôn tạo khu vực công trình kiến trúc có giá trị; phát triển các không gian công cộng đô thị. Tăng cường quản lý PTĐT, nâng cao năng lực quản lý đô thị, tổ chức mô hình quản lý đô thị hợp lý, hiệu quả, ứng dụng công nghệ trong quản lý đô thị.
Trong thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và các địa phương trong vùng để tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, đầu tư, quy hoạch, PTĐT, kiến trúc, xây dựng theo hướng bảo đảm kết hợp đồng bộ và hài hòa giữa cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị với phát triển các đô thị mới, bảo đảm kiến trúc đô thị hiện đại, giàu bản sắc, các yếu tố văn hóa đặc trưng được giữ gìn và phát huy.
Phát triển mạnh mẽ liên kết ngành, liên kết vùng và lợi thếkết nối đa chiều của các đô thị; chú trọng PTĐT, bảo đảm chất lượng sống tại đô thị ở mức cao, đáp ứng cơ bản nhu cầu về nhà ở và hạ tầng xã hội cho dân cư đô thị. Phát triển hệ thống đô thị bền vững theo mạng lưới, phân bổ hợp lý, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền; PTĐT có chức năng tổng hợp với quy mô và dân số ở mức hợp lý theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và dịch bệnh; bảo đảm tính kết nối cao giữa các đô thị trực thuộc Trung ương, đô thị trung tâm cấp quốc gia với đô thị vùng và khu vực nông thôn./.
(HSSK 482: 10/11/2022)