25/10/2025 | 23:14 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Sống với những trang nhật ký chiến trường

Vũ Toàn
Sống với những trang nhật ký chiến trường Ông Đặng Sỹ Ngọc hồi tưởng về những lần viết nhật kí chiến trường_Ảnh: Vũ Toàn
Ông Đặng Sỹ Ngọc, 77 tuổi, trú tại phường Trường Vinh, tỉnh Nghệ An là thương binh nặng 1/4. Cuộc đời lính trận khốc liệt và cuộc sống mưu sinh gian nan của ông bỗng “vỡ oà” trên hàng nghìn trang sách lay động lòng người. Đây là một câu chuyện dài về một cựu binh, thương binh nghĩa khí, tâm hồn, luôn biết trân quý, nâng niu từng khoảnh khắc cuộc đời.

Ba lần chúng tôi tìm đến ngôi nhà số 3 trong ngõ số 6, đường Tuệ Tĩnh, phường Trường Vinh mới gặp được ông. Đơn giản vì ông “bận” chở cuốn sách thứ 5 của mình mới xuất bản đi tặng bạn bè, chiến hữu. 

Đơn giản nữa là bởi tai ông “không còn nghe thấy một chút gì”, nên nhiều cuộc điện thoại tôi kiên trì gọi đến ông đều không có hồi âm. Ông bảo, “anh nhắn tin thì tôi mới biết”.

Đây cũng là lần đầu tiên trong đời làm báo tôi gặp khó, bởi cuộc trao đổi với ông phải viết ra giấy từng câu hỏi. 

Mà đâu chỉ viết câu hỏi là có câu trả lời, bởi câu chuyện lính trận vào sinh ra tử của ông trên nhiều chiến trường lửa đạn với 8 lần bị thương, gãy hai chân, gãy tay, mổ bụng, khâu gan, nối ruột,... biết bao nhiêu tình tiết ngóc ngách; những trạng thái tình cảm; những nghĩ suy của người lính, nhất là công việc viết nhật ký vô cùng ly kỳ của người lính trên mọi nẻo chiến trường.

Viết nhật ký chiến trường

Ông Ngọc đi bộ đội năm 1966, khi 18 tuổi, vừa hết lớp 7. Thấy chúng tôi ngạc nhiên, ông bảo nhà nghèo, lên 10 tuổi mới được đi học. 

“Dạo ấy, làng xã náo nức không khí tòng quân. Xã tôi có 36 thanh niên nhập ngũ. Tôi là con một, bố lại mất sớm nên không thuộc diện đi bộ đội nhưng tuổi trẻ thôi thúc chàng trai quê nghèo. Lần đầu, đơn tình nguyện của tôi không được chấp nhận. Tôi viết tiếp đơn lần 2 rồi lần 3, ký tên bằng máu. Lần này thì mong muốn của tôi được toại nguyện. Mẹ tôi là cán bộ phụ nữ xã. Bà thương con trai “độc đinh” lắm nhưng rồi cũng đồng lòng, miễn là tôi được mặc áo lính như thanh niên trong làng”, ông Ngọc bồi hồi kể.

Ông Ngọc nhập ngũ mang theo nhiều ký ức đời học sinh dang dở, nhưng ký ức sâu đậm nhất ẩn chứa trong lời dặn của thầy giáo dạy văn khuyên học trò giỏi văn là “vào chiến trường, em nên tranh thủ thời gian để viết nhật ký như em thường viết khi đi học”. 

Ông không ngờ, những trang nhật ký đó giờ trở thành những trang văn sống động, chân thật và quý báu nhất trong đời ông. Hồi tưởng lại những trang nhật ký từng “ra đời” trong mưa bom bão đạn, ánh mắt ông Ngọc sáng lên. 

Ông kể: “dọc đường những cuộc hành quân hoặc lúc nghỉ lại trong nhà dân, nhất là sau từng trận đánh cam go, có biết bao diễn biến giữa sự sống và cái chết. Ở đó, xảy ra bao tình cảnh, sự việc khiến tâm can người lính không thể yên nguôi, không thể nguôi quên. Viết nhật ký như một nhu cầu sống thiết yếu, trở thành nỗi thôi thúc trong tâm hồn người lính trẻ. Nhưng ở chiến trường đâu có sẵn bút và giấy để viết. Viết nhật ký rồi để vào đâu cho hết khi ba lô căng đầy áo quần, tăng võng, lương khô...”.

Có lần, viết kín từng cuốn sổ tay, người lính Đặng Sỹ Ngọc đang ngồi nhớ những dòng nhật ký chưa kịp viết vì hết cả giấy bút. Anh chợt nghĩ, chỉ có cách thu hồi chiến lợi phẩm sau từng trận đánh thì sẽ có bút, có giấy, tha hồ mà viết. 

Rồi những chiến lợi phẩm cho riêng mình ấy đã giúp anh ghi lại chính xác, không sót sự kiện quan trọng nào. Anh viết mọi lúc, mọi nơi. Viết dưới hầm. Viết trên mâm pháo. Nằm trong trạm phẫu thuật, khi vết thương bớt đau cũng cầm bút viết vài dòng.

“Vậy, ông để đâu cho hết những cuốn nhật ký?”, tôi tò mò. “Những ngày đầu, viết xong là lên đường nên tôi gửi lại những cuốn sổ nhỏ trong nhà dân”. “Số phận những cuốn sổ nhật ký ấy rồi sẽ như thế nào?”, “Hầu hết bị mất vì nhà dân thời chiến tranh không dễ yên lành với bom đạn huống chi mấy cuốn sổ nhỏ”. 

“Vậy những cuốn sách ông đã xuất bản thì viết bằng trí nhớ hay sao?”. “Trí nhớ chỉ một phần. Đời lính ngổn ngang những kỷ niệm, chiến tích. Tôi “biến” những trang nhật ký thành sách là nhờ những “cuộn” nhật ký tôi gửi về cho mẹ khi bằng đường thư từ chiến trường, khi nhờ đồng đội “cầm ra Bắc”. Mẹ tôi cất giữ rất cẩn thận cho đến lúc tôi là thương binh về làng. Sau này, khi ngồi lần giở từng trang nhật ký để viết sách tôi mới thấy sự “siêng” viết nhật ký đã giúp tôi trở thành nhân chứng sống của những đồng đội đã anh dũng hy sinh và của chiến tranh”.

Nhắc đến chi tiết này, ông Ngọc cho biết, năm 1967 đơn vị ông vào chiến trường Gio Linh, Gio An chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân 1968 ở mặt trận Huế thì ông bị thương lần đầu tiên khi đạn địch bắn gãy cánh tay trái. 

Lần ấy, trước khi phẫu thuật vết thương, tranh thủ lúc cơn đau dịu xuống, ông ghi tên mấy nữ quân y trong trạm phẫu thuật vào trang nhật ký. Mới đây, trang nhật ký đó giúp ông tìm lại những nữ quân y đã phẫu thuật cho ông, người ở Nam Định, người ở Hà Tây (cũ)... 

Ông bảo: “người còn, người mất nhưng tất cả đều như đang sống lại trong tôi đều nhờ những trang nhật ký chiến trường năm xưa”.

Sách và đời

Từ những “cuộn” nhật ký gửi về cho mẹ, ông viết 9 cuốn sách. Trong đó có 5 cuốn đã được các nhà xuất bản Công an nhân dân, Phụ nữ, Nghệ An ấn hành, gồm: “Trời xanh không biên giới” (năm 2006); “Nuôi con thời bao cấp” (năm 2015); “Ký ức cùng đồng đội và quê hương” (năm 2016); “Vui cùng quá khứ, hướng tới tương lai” (năm 2017); “Một thời hoa lửa” (năm 2022). 

Trong 5 cuốn sách đã xuất bản, có cuốn được Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đặt hàng, có cuốn nhà xuất bản trả nhuận bút. Do thiếu sách tặng, ông dùng số tiền nhuận bút in thêm sách để tặng chiến hữu, người thân, xem như một món quà quý.

Đọc những cuốn tự truyện này, nếu là người cựu binh sẽ thấy một phần nào cuộc đời của mình trong trận mạc những chiến trường xưa. 

Nếu không phải là cựu binh, người đọc cũng dễ dàng hóa thân vào năm tháng gian lao của chàng tân binh Sư đoàn 324, Quân đoàn 2 đến người lính trận từ chiến trường Quảng Trị rồi bốn mùa khô ở chiến trường Lào với những trận đánh khốc liệt, những hình ảnh hy sinh anh dũng của người lính trận... 

In xong sách và tặng xong sách, trở về ngôi nhà trong ngõ nhỏ thân thuộc của mình, ông Ngọc tự an ủi “mình viết tự truyện nhưng thực ra mình còn viết cho cả đồng đội thân yêu của mình trên mọi nẻo chiến trường gian khổ, oanh liệt”.

Riêng cuốn “Nuôi con thời bao cấp” dẫn dụ người đọc hướng đến một tình cảm đáng trân trọng khác. Đó là nể phục sự bươn chải của một cựu binh, thương binh nặng để mưu sinh, nuôi 3 con vào đại học. Hết nghề bóc lạc, đến chăn nuôi gà, đến đi xe lai. 

Cầm cuốn sách trên tay, ông Ngọc nói: “năm 1979, tôi đang ở Khu điều dưỡng thương binh Nghệ An, là đảng ủy viên, đội trưởng một đội thương binh nặng nhưng cũng cố sức đi xe lai để cải thiện đời sống khó khăn. Do trước đây bố tôi công tác trong ngành công an nên biết tôi đi xe lai, các anh bên công an tỉnh giúp đỡ mua cho tôi cái xe máy tốt hơn xe cũ. Sau hơn 10 năm bươn chải, một số nhà báo quân đội ở Nghệ An khuyên tôi cẩn trọng với sức khỏe, đề phòng bệnh tật tái phát, không nên đi xe lai nữa, về nhà dành thời gian “khai quật kho nhật ký của mình” để viết tự truyện. Lời khuyên đó đã giúp tôi viết được 5 cuốn sách như hôm nay”.

Giữa chừng câu chuyện, ông Ngọc dẫn tôi vào phòng riêng của vợ chồng ông. Bên chiếc tủ mộc mạc, ông lấy cho tôi xem những danh hiệu cao quý như Huân chương Chiến sĩ vẻ vang do Chủ tịch Nước tặng, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ,... và tấm ảnh người vợ khi mới cưới. 

Nâng tấm ảnh trên tay, ông Ngọc lại bồi hồi: “năm 1972, khi tôi đang an dưỡng ở Viện 112 thì nhận được thư hỏa tốc của mẹ. Mẹ cho biết ốm nặng, con phải về gấp. Nhưng khi tôi về đến nhà, có thấy mẹ ốm đâu. Mẹ bảo, gọi tôi về để lo mà cưới vợ. Lúc đó, mẹ đã “dạm” (chọn trước) vợ cho tôi rồi. Ba tiêu chuẩn con dâu của mẹ quá khắt khe: phải là người cùng quê, đi bộ đội, biết nghề y để chăm sóc tôi lúc đau ốm. Hóa ra, cô gái do mẹ “dạm”, sau này trở thành vợ tôi tên Vân, người cùng làng, bạn học cùng trường nhưng sau tôi một lớp. Khi tôi đi bộ đội, Vân học tiếp. Tốt nghiệp cấp 3, Vân xung phong đi bộ đội, làm y tá tỉnh đội rồi tăng cường sang mặt trận Lào”. 

Nói đoạn, ông khoe: “3 con tôi học giỏi, giờ rất thành đạt. Con trai đầu là sĩ quan cao cấp. Hai con gái đều là cán bộ ngân hàng ở Hà Nội và Nghệ An. Riêng chuyện này tôi chưa viết thành sách”./.

24 October 2025

Trang: 1 2 Sau