Bài hát về người thợ mỏ Anh hùng
Phạm Học
Người anh hùng của công nhân mỏ
Trong căn phòng ấm cúng, bà Đặng Thị Mát - 84 tuổi, vợ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Đặng Bá Hát, ở số nhà 126, đường Cao Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - bùi ngùi kể cho chúng tôi nghe về người chồng thân yêu. Mỗi lần nhắc đến ông, giọng bà lại nghẹn ngào. Tuổi tác và sự xúc động làm cho những mẩu chuyện về người chồng thân yêu của bà không còn liền mạch nữa. Những câu chuyện tưởng chừng chẳng bao giờ nói hết.
Anh hùng Đặng Bá Hát sinh năm 1936 trong một gia đình nông dân ở huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Đồng Tái, xã Thống Kênh, huyện Gia Lộc. Ông là bộ đội trở về từ cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi đầu quân cho Xí nghiệp Bến Hồng Gai, nay là Công ty Tuyển than Hòn Gai (thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam), từ năm 1960 làm Tổ trưởng sản xuất Tổ máy trục hơi số 5, rồi Phó quản đốc Phân xưởng Cầu Đống. Năm 1967, Đại đội pháo 37 ly thuộc Tiểu đoàn Tự vệ bến Hòn Gai ra đời và Đặng Bá Hát được phân công làm Bí thư chi bộ, Đại đội trưởng.
Ngay khi nhận nhiệm vụ, Đặng Bá Hát đã chỉ huy đơn vị tích cực huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu cao, cùng 30 chiến sĩ chốt ở đồi Khí Tượng, khu Lán Đạo. Ông mang kinh nghiệm từ những tháng năm trong quân ngũ vận dụng vào việc xây dựng lực lượng tự vệ bán vũ trang 58 chiến sĩ, sang chốt giữ và khống chế địch từ xa tại trận địa pháo 102. Dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Đặng Bá Hát, trong khoảng 2 năm từ tháng 5-1972 đến tháng 10-1974, đơn vị đã bắn hạ 1 máy bay F4 và 1 máy bay F8, đánh 37 trận, tháo gỡ 104 quả bom, phá hơn 2.500 quả bom các loại.
Ông Vũ Trọng Hiếu - nguyên là pháo thủ số 3, Đại đội tự vệ pháo 37 ly C34 Xí nghiệp Bến Hòn Gai - còn nhớ như in buổi chiều ngày 12-7-1972, không quân Mỹ đánh phá bến phà Bãi Cháy. Khi ấy, Đặng Bá Hát và toàn khẩu đội tập trung cao độ quan sát, tiêu diệt mục tiêu, nã đạn pháo liên tục. Nhưng bọn địch thâm độc đã nghi binh, dùng 2 máy bay từ hướng Hoành Bồ với thủ đoạn bay thấp, đánh lén bỏ bom xuyên, bao trùm cả trận địa. Thợ mỏ Đặng Bá Hát bất ngờ bị mảnh bom xuyên thủng bụng, một tay giữ chặt vết thương, tay kia vẫn phất cờ lệnh và miệng ông còn hô: Bắn! “Nhưng vết thương quá nặng, Phó quản đốc kiêm Đại đội trưởng Đặng Bá Hát của chúng tôi đã anh dũng hy sinh bên tháp pháo. Anh đã hy sinh cùng 5 đồng chí khác. 26 đồng chí khác bị thương. Sau đó, chúng tôi bổ sung củng cố lực lượng và lấy tên anh đặt cho đơn vị; lấy ngày anh hy sinh làm ngày truyền thống”, ông Hiếu xúc động nhớ lại.
Để ghi nhớ chiến công của ông, người ta gọi lực lượng tự vệ đó là Đại đội Đặng Bá Hát, lấy tên ông đặt cho tên một con đường và một khu phố. Năm 1995, liệt sĩ Đặng Bá Hát được nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. “Anh Hát có ý thức cao trong chiến đấu xuất phát từ bản chất của giai cấp công nhân mỏ. Anh là phó quản đốc nên chỉ huy sản xuất thế nào thì chỉ huy chiến đấu kỷ luật còn cao hơn. Dù chúng tôi chỉ là dân quân tự vệ nhưng tinh thần không kém gì đơn vị chủ lực, vì ở thị xã bộ đội chủ lực còn rất thưa. Chúng ta còn đang tập trung cho miền Nam, vì thế dân quân tự vệ như anh Hát và chúng tôi chủ yếu bảo vệ sản xuất. Chúng tôi luôn ghi lòng tạc dạ hình ảnh của anh và những lời anh dặn”, ông Hiếu xúc động nói.
Người chồng mẫu mực, người cha thần tượng
Bà Mát đã ngoại bát tuần nên sức khỏe đã yếu dần, nhưng những ký ức về người chồng thân yêu vẫn còn vẹn nguyên. Bà kể: “anh ấy là người ít nói, thẳng tính. Chúng tôi làm cùng cơ quan. Anh Hát phụ trách lớp học bổ túc văn hóa của chúng tôi. Ai cũng quý mến anh. Anh đẹp trai nữa, lại chững chạc hơn những người cùng trang lứa. Không biết tự bao giờ, tôi đã phải lòng ông thầy của mình. Anh cũng yêu tôi nhiều lắm. Và rồi có lần anh đã thẳng thắn ngỏ lời. Tôi đồng ý ngay”.
Hai ông bà đã phải vượt qua một chặng đường gian khổ để có thể đến được với nhau trong hạnh phúc. “Chúng tôi cứ yêu nhau như thế được khoảng 2 năm. Thấy chúng tôi yêu thương nhau, anh em ai cũng vui mừng, nhưng bố mẹ tôi thì ban đầu lại cấm đoán. Các cụ vẫn còn phong kiến lắm, họ muốn tôi lấy chồng cùng quê và phải biết rõ gia cảnh thế nào theo kiểu cha mẹ sắp đặt con cái nghe theo. Thế là chúng tôi phải nhờ một anh cùng cơ quan hằng ngày lên thuyết phục bố tôi. Ông ấy biết đánh cờ nên ngồi với bố tôi được rất lâu, ông ấy còn nhận anh Hát là người nhà nữa. Dần dà, ông cụ nhà tôi cũng nghe theo. Năm 1962, chúng tôi đã thành vợ thành chồng. Đám cưới của chúng tôi rất nghèo, nhà anh Hát mang ra chỉ có chè và thuốc làm sính lễ. Mặc dù không được như đám cưới của chúng bạn nhưng vợ chồng tôi lại sống rất hạnh phúc và thương yêu nhau lắm”, bà Mát kể.
Là bộ đội phục viên có nhiều kinh nghiệm trong chỉ huy chiến đấu, nên ông Hát rất ít khi về thăm nhà. Thế nhưng, mỗi lần về thăm nhà là ông lại quấn quýt với vợ con. Vợ chồng ông bà sống rất đằm thắm trong những ngày ấy. Bà Mát kể tiếp: “ông ấy thương vợ con vô cùng, nhưng lại rất nghiêm khắc. Tôi còn nhớ ông ấy không cho phép mẹ con tôi nhặt bất kỳ hòn than nào của công ty về để sưởi ấm. Con tôi ốm nhẹ tôi đòi nghỉ chăm con là ông mắng ngay”. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc tưởng chừng sẽ kéo dài mãi mãi, nếu không có cái ngày ông Hát hy sinh bên tháp pháo. Khi nhắc đến ngày ông Hát hy sinh, giọng bà Mát chợt nghẹn ngào: “tôi nhớ rất rõ chiều ngày 11-7, anh ấy có về thăm nhà một lúc. Do chiến tranh ác liệt, nên tôi đã gửi 3 đứa con nhỏ đi sơ tán. Vì thế anh ấy bảo: “sau đợt này, mình đi thăm các con nhé. Anh nhớ chúng lắm rồi! Chiến tranh kiểu này một mất một còn chẳng biết thế nào. Mình bắn hạ nó, cái máy bay khác lại ném bom lại mình”.
Thế rồi, sáng sớm ngày 12-7, máy bay Mỹ bắn phá ác liệt thị xã Hòn Gai. “Tầm chiều muộn, khi đang trú bom trong hầm, tự nhiên tôi thấy lạnh toát xương sống nên hớt hải về nhà. Đúng lúc ấy có người đến báo tin, anh Hát hy sinh rồi. Tôi như người mất hồn, băng qua các hố bom tìm đến nơi để thi thể anh ấy. Anh hy sinh vì trúng bom, người dập nát. Tôi nhìn anh đau đớn đứt ruột. Vậy là lời hứa cùng tôi đi thăm các con của anh đã không thành”, bà Mát gạt nước mắt kể.
Ngày ông hy sinh, con gái lớn của ông mới 9 tuổi, 3 người con sau còn rất nhỏ, cuộc sống của mấy mẹ con bà Mát hết sức khó khăn. Nhà có 4 người con, bà Mát phải gửi 2 đứa con lớn về Hải Dương để sơ tán và nhờ ông bà nội nuôi giúp. Hai người con nhỏ của bà ở lại Hòn Gai với mẹ và ông bà ngoại. Đến nay, cả 4 người con của ông bà đều đã trưởng thành. Ông bà có 2 người con nối nghiệp cha mẹ công tác ở Công ty Tuyển than Hòn Gai. Chị Đặng Thị Huệ - con thứ ba của Anh hùng Đặng Bá Hát - đang làm việc ở Phân xưởng Đời sống, anh Đặng Bá Dương - con út - làm ở Phân xưởng Vận tải (Công ty Tuyển than Hòn Gai).
Chị Huệ nhớ về người cha anh hùng: “mặc dù thời gian sống bên bố không nhiều, nhưng đối với tôi, bố như một thần tượng. Ông là một người cách mạng kiên trung, một người cha chu đáo và nghiêm khắc lại gần gũi tình cảm”. Qua lời mẹ, các cô chú và đồng đội của bố kể lại, được đọc những bài báo viết về những chiến công oanh liệt của bố, từ sâu thẳm trong tim, chị Huệ thấy tự hào lắm. Những ký ức ấy đã như một điểm tựa vững chắc để chị không ngừng vươn lên. Chị Huệ rưng rưng hát mấy câu mà tôi nghe chưa kịp hiểu: “Con yêu bố Đặng Bá Hát/ Làm công nhân trên đất Quảng Ninh/ Bắn rơi máy bay giặc Mỹ/ Để quê hương sướng vui hòa bình/ Con biết rồi, bố thường lên đồi trực chiến/ Nhìn trời cao, mắt bố sáng như sao/ Ầm ầm vang, con nghe pháo thét/ Con Ma, Thần Sấm/ Gẫy đuôi, mất đầu....”.
Thấy tôi ngạc nhiên, chị từ tốn giải thích rằng đó là bài hát về bố chị mà các bạn thiếu nhi của chị hay hát khi xưa. Đến tận bây giờ, sau nửa thế kỷ rồi chị không còn nhớ tên tác giả bài hát đó là ai nữa nhưng từng câu, từng chữ trong bài thì chị vẫn thuộc nằm lòng. Thời ấy chị đã sửa câu đầu từ “Cháu yêu chú Đặng Bá Hát” thành “Con yêu bố Đặng Bá Hát” bởi chị là con ông, chị đã hát lên với niềm tự hào vô hạn vì được làm con của một người cha anh hùng.
Sau này, các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ còn viết nhiều bài về người anh hùng thợ mỏ nhưng với chị Huệ, bản thân cuộc đời cha mình đã là một bài hát, một bản trường ca bất hủ, tự hào đến vô song đúng như cái tên mà các cụ đã đặt cho ông vậy./.