Du ký về An Giang nửa đầu thế kỷ XX
La Nguyễn Hữu Sơn
Các tác giả viết về An Giang ngày đó là Hồ Biểu Chánh (1885 - 1958), Phạm Quỳnh (1892 - 1945), Đông Hồ Lâm Tấn Phác (1906 - 1969), Hoàng Đạo (1907 - 1948), Khuông Việt Lý Vĩnh Khuông (1912 - 1978), Mộng Tuyết Thái Thị Út (1914 - 2007) và những Biệt Lam Trần Huy Bá, Nguyễn Văn Kiểm, Trúc Phong, Trường Sơn Chí, Võ Nhan Cư, Nguyễn Thế Phương, Trung Thành, K.D, Bỉnh Chi, Minh Kha... Các bài du ký xuất hiện trên nhiều báo như Công luận, Nam Phong tạp chí, Sài Gòn, Tân văn, Ngày nay, Nam Kỳ tuần báo, Tri tân tạp chí...
Trong số các tác giả này có người sinh ra và lớn lên ở An Giang, có người mới một lần đi ngang qua vùng sông biển An Giang mà lưu lại trang du ký cho đời. Ở đây chỉ xin giới thiệu lược giản diện mạo và đặc điểm du ký An Giang nửa đầu thế kỷ XX từ cả trăm trang viết trên nhiều loại báo chí khắp trong Nam ngoài Bắc còn lại đến ngày nay.
Những trang du ký này vừa có ý nghĩa văn chương vừa là những tư liệu khảo sát, điền dã, ghi chép sinh động về địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, danh lam thắng cảnh, góp phần giúp độc giả và khách du lịch thời hiện đại hiểu rõ hơn hiện trạng cảnh quan và đời sống người dân vùng quê An Giang cách ngày nay khoảng 1 thế kỷ.
Nổi bật trong số các tác giả gắn bó với quê hương An Giang và viết nhiều về vùng biển Tây Nam An Giang là nhà văn Đông Hồ, với bài viết Thăm đảo Phú Quốc trên Nam Phong tạp chí (năm 1927). Trong tư cách nhà giáo, Đông Hồ nhấn mạnh vị thế miền đảo thắng tích và nguyên cớ cuộc ra đi. Chuyến đi bắt đầu bằng ô tô, khởi hành từ Hà Tiên ngày 17-11 năm Đinh Mão (10-12-1927), đi qua Cần Giọt, Hòn Ráng rồi chuyển tàu thủy đi Phú Quốc.
Tại Phú Quốc, đoàn nhà giáo làm việc và thăm Dương Đông - Giếng Tiên - Suối Đá - Suối Mây - Cửa Cạn - Cửa Dương - miếu Lăng Ông - chùa Sùng Hưng - chùa Quảng Tế - Hàm Ninh - Bãi Bổn - Ghềnh Gió rồi đến ngày trở về...
Đây là lời kết cho một chuyến du ngoạn: “rạng đông ngày 27 tháng 11 năm Đinh Mão (20-12-1927) tàu về đến cửa Kim Dữ, mười ngày trải qua như trong chớp mắt, khách lữ hành mơ màng như người trong mộng”... Trong chuyến đi này, Đông Hồ còn viết bài ca Dương nguyệt hoài khúc và khi đến thăm Lăng Ông (thờ Nam Hải tướng quân), ông lại chép được ba đôi câu đối phiên âm chữ Hán...
Ba năm sau, Đông Hồ và Nguyễn Văn Kiểm có bài sao lục Cảnh vật Hà Tiên trên Nam Phong tạp chí (năm 1930). Nói cho đúng, đây là bài đan xen giữa du ký và hồi ức, giữa khảo cứu và điều tra thực địa, có đoạn gần với phong cách ghi chép địa chí.
Toàn văn chia thành 23 đề mục: 1- Cảnh đẹp; 2- Nghề sinh nhai; 3- Thành phố Hà Tiên hiện nay; 4- Chợ Hà Tiên; 5- Đông Hồ ấn nguyệt; 6- Châu Nham lạc bộ; 7- Phương Thành; 8- Đồng Điền; 9- Các thứ danh mộc; 10- Hoa mai; 11- Các thứ kiểng; 12- Hoa sen; 13- Hoa lan nguyệt dạ; 14- Tre, trúc; 15- Trái cây, khoai đậu; 16- Cầm thú; 17- Vòm hào, tôm cá; 18- Trường học; 19- Nhà thân phụ tôi; 20- Đông Hồ và sông Hà Tiên; 21- Cảnh pháo đài; 22- Ao sen; 23- Bài ký chơi Châu Nham. Xem qua các đề mục ấy thì đủ biết đại khái cuộc sống con người, lịch sử, thiên nhiên, danh thắng, cảnh vật và đặc sản xứ biển cực Tây Nam.
Tiếp theo, nữ sĩ Mộng Tuyết có bài Chơi Phú Quốc trên Nam Phong tạp chí (năm 1934) khi mới tròn 20 tuổi. Trong cuộc du ngoạn, Mộng Tuyết đặc biệt yêu thích cảnh đi thuyền chơi biển đêm trăng thi vị giữa mịt mùng sóng nước: “cảnh đêm ở giữa biển thật có vẻ thần bí. Mấy chòm cù lao nằm êm lặng trên mặt nước âm thầm. Thỉnh thoảng một con cá lội qua làm xao động mặt nước hiện ra một vệt sáng trắng lòe, rồi lại tan ngay. Đêm càng khuya, trăng sao càng sáng tỏ. Ngồi chán, lại nằm; trên mui ghe, chúng tôi tắm gió biển suốt đêm”...
Một cuộc du ngoạn. Một chuyến du lịch. Người ở ngay Hà Tiên - An Giang mà đến với Phú Quốc vẫn nao lòng. Đêm trăng năm xưa, bây giờ vẫn thế, mãi sau này vẫn thế.
Vào những số cuối cùng, trên Nam Phong tạp chí (năm 1934) có du ký ngắn gọn Tết chơi biển của Trúc Phong - học trò trường tư thục Trí Đức học xá (Hà Tiên). Nhóm bạn có 9 người, rủ nhau đi thuyền chơi biển từ 4 giờ chiều ngày mồng một Tết đến sáng sớm ngày mồng sáu. Họ rời bến Đông Hồ, qua thăm Hòn Tre, Hòn Đước, Hang Tiền, Hòn Nghệ (chỉ có 10 gia đình sinh sống), Ba Hòn Đầm (gặp bà Ba Thạnh đã 59 tuổi đang khai hoang, làm vườn ở đây), qua Hòn Đụng, Hòn Chong rồi trở về bến cũ.
Tác giả mô tả cuộc đi chơi biển ngày tết thật thú vị nhưng ấn tượng nhất là cái cách đi chơi: “dám bạo gan, vượt cái phong tục tự nghìn xưa để lại, không kiêng cữ ba ngày đầu trong năm, chưa cúng thần Hà Bá mà dám vượt biển ra khơi. Cái ý nghĩa ngày Tết, rằng hay thì thật là hay, nhưng trong cái tục lệ cũ kỹ cũng nên lọc lựa sửa đổi, cho hợp với thời đại và cho có lợi trong cuộc đời phấn đấu ngày nay”...
Có thể coi như Trúc Phong đang truyền bá ý nghĩa của cuộc du lịch trên biển ngày nào. Mà sóng nước Hà Tiên mênh mông thì muôn đời vẫn thế, mãi sau này rồi vẫn thế, trong cách nhìn của Trúc Phong và muôn triệu chúng sinh...
Trong một chuyến hành phương Nam, nhà văn Hoàng Đạo có du ký Trên sông Cửu Long
in báo Ngày nay (năm 1936) thuật chuyện cùng ông bạn quan huyện du ngoạn trên kênh rạch với sự lãng mạn, gắn kết dân tộc và niềm tin đất nước thống nhất, an yên: “Tôi còn nhớ một đêm trăng ở Long Xuyên, một đêm trăng sáng trên một trời quang mây. Tôi nhìn thấy rõ rệt, trong những làng xa xa, dân quê sống một đời giống như đời dân quê miền Bắc: cùng một văn hóa, cùng một nguyện vọng, cùng một lý tưởng”...
Đặc biệt, mở đầu du ký trường thiên liên tỉnh Hai lăm ngày đi tìm dấu người xưa trên Nam Kỳ tuần báo (19 kỳ, năm 1943) in đậm chất du khảo, điều tra văn hóa học, dân tộc học, địa phương học, ký giả Khuông Việt - nhà báo Việt Nam đầu tiên được cấp thẻ “Báo chí Liên hợp quốc” (năm 1948) - nêu khái lược mục đích, nhận thức, cảm tưởng chuyến du ngoạn, chủ động tường tả rõ sự kiện, cảnh ngộ, chi tiết công việc trong điều kiện giao thông khó khăn và bày tỏ tiếng nói chủ thể tác giả về tình yêu, niềm tự hào về quê hương, đất nước: “Trải qua các tỉnh Cần Thơ, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Bến Tre, Mỹ Tho và Tân An, tấm lòng hiếu cổ của chúng tôi được thoả mãn trước những đình, chùa, miếu, mộ, hùng vĩ nguy nga cũng có, bình dị điêu tàn cũng có, và những phong cảnh gấm vóc của non sông đất nước”...
Tiếp sau đó, ký giả kể chi tiết những điều tai nghe mắt thấy trên hành trình khám phá hệ thống di tích lịch sử, thắng cảnh, sinh thái, dẫn giải diên cách, địa danh miền quê An Giang - Tây Nam Bộ và nhắc nhớ tên tuổi các bậc danh nhân như Đốc Trưng (Nguyễn Thanh Trưng), mộ ông Chàm Hoàng (tên Đuos), “Cù lao ông Chưởng” - Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh, Đô thống Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, Cai Nas (Abdoul Manef), Bang Ly, Muslapha...
Đến chặng cuối, nhà khảo cổ Biệt Lam (Trần Huy Bá) có lữ ký trường thiên Hai tháng ở gò Óc Eo hay là câu chuyện đi đào vàng trên Tri tân tạp chí (6 kỳ, năm 1945) đã kể chi tiết ngày từ Viện Viễn Đông bác cổ (Hà Nội) ra đi, qua Sài Gòn rồi chuyển tiếp tới làng Vọng Thê.
Đan xen những miêu tả chi tiết vị trí gò Óc Eo, Cây Thị, làng Vọng Thê, núi Ba Thê, chùa Linh Sơn và Tiên Sơn, tác giả lược tả cảnh quan vùng di tích và xác định đặc điểm khảo cổ học Óc Eo trong tầm khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Đoàn khảo cổ xác định những đồ vật tìm thấy ở vùng Óc Eo này thuộc phạm vi của nước Fou Nan (Phù Nam) từ hồi thế kỷ thứ tư, thứ năm sau Tây lịch: "Trong những đồ vật đã tìm thấy, phần nhiều thuộc mỹ thuật tương tự của xứ Iran. Theo như người ta đã biết, từ hồi thế kỷ thứ tư, có một ông vua người giống Iran đã cai trị xứ Phù Nam. Trong đó các đồ tìm được có một đồng tiền La Mã, trổ hình đầu người, và đề tên nổi ở chung quanh là: Antonin le Pieur, lại có cả niên hiệu 152... Vả lại, hồi thế kỷ thứ hai, đã có người La Mã tới ở tỉnh Porudicher xứ Ấn Độ, và theo các sử sách nhà Hán có ghi, thì năm 166, ông Marc Aurèle đi sứ bộ nước Tầu... Vậy ta có thể đoán rằng: những người La Mã hồi ấy đã có thể qua xứ Phù Nam mà để lại các đồ vật ấy chăng”...
Đó là một vài nét đặc sắc về phong cảnh, cuộc sống và con người miền di chỉ Óc Eo, phù hợp với suy nghĩ và tầm nhìn của người đương thời trong đoạn kết: “Khi tiệc từ giã làng Vọng Thê, ông Chánh đoàn Phái bộ có đứng lên đọc một bài từ biệt (...), mong mỏi sau này làng Vọng Thê sẽ thành một nơi trọng yếu để đón các du khách tứ phương. Nếu nơi gò Óc Eo sẽ khảo cứu ra nhiều điều bí mật thì sự thịnh vượng của làng Vọng Thê còn nhiều hy vọng về tương lai”...
***
Qua những trang du ký viết về An Giang giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX có thể thấy các văn nhân thời bấy giờ đã rất quan tâm các di tích lịch sử và chốn danh lam thắng cảnh. Trong bối cảnh chế độ thực dân nửa phong kiến và điều kiện giao thông chưa phát triển, các trang du ký trên góp phần phổ biến kiến thức, khơi gợi tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc thông qua chuyến thăm một vùng quê giàu truyền thống văn hóa và tiềm năng du lịch.../.









Các bài cũ hơn


