Tổng kết tốt kinh nghiệm để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
***(Tạp chí Cộng sản, số 2-1989)
Toàn đảng, toàn dân ta thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đến nay đã được hơn hai năm. Hai năm là một quãng thời gian quá ngắn ngủi so với tầm vóc và quá trình đổi mới của một đất nước, một dân tộc. Nhưng với chúng ta, hai năm qua có nhiều ý nghĩa rất trọng đại, vì đó là hai năm tìm tòi, thể nghiệm, “vừa thi công vừa thiết kế” những công trình đổi mới mà Đại hội VI mới phác họa những đường nét chung. Đó là hai năm phức tạp và khó khăn, có việc làm được và nhiều việc chưa được; không ít người bỡ ngỡ, băn khoăn, ngày đêm trăn trở, suy tư, thậm chí bực bội, day dứt.
Ngay trong nội bộ đảng, các cơ quan nhà nước cũng có những ý kiến khác nhau, không chỉ trên vấn đề cụ thể mà cả trên một số vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc. Có khuynh hướng muốn làm nhanh, làm gấp; có khuynh hướng muốn làm thận trọng, dè dặt. Làm nhanh thì bị quy là nôn nóng; làm chắc từng bước thì bị phê phán là chập chờn, nửa vời; uốn nắn lệch lạc thì bị gán là bảo thủ. Trên hàng loạt vấn đề, giữa đổi mới và bảo thủ, bảo thủ và đổi mới không phân định rõ; có không ít vấn đề cơ bản chưa kết luận được.
Theo quyết định của Ban bí thư Trung ương Đảng, các cấp, các ngành đang tiến hành tổng kết thực tiễn nhằm khẳng định rõ hai năm qua chúng ta đổi mới được những gì, cái gì làm được, cái gì chưa làm được; phân tích sâu sắc nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra những giải pháp lớn cho những năm trước mắt. Trên cơ sở đó tạo ra sự nhất trí về quan điểm, thống nhất trong hành động, tin tưởng vào sự nghiệp và con đường chúng ta đang đi. Rõ ràng, đây là một việc làm rất quan trọng và cần thiết.
*
1. Muốn tổng kết tốt, đánh giá đúng thực trạng tình hình, trước hết phải có quan điểm lịch sử cụ thể, có cách nhìn bình tĩnh và biện chứng. Đã có một thời, khi phân tích đánh giá tình hình, chúng ta thường đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan, không nghiêm khắc với những thiếu sót, khuyết điểm chủ quan. Nhưng mấy năm gần đây lại có khuynh hướng chỉ nói thiếu sót, khuyết điểm chủ quan, không phân tích đầy đủ ngoại cảnh. Cả hai khuynh hướng đó đều không đúng, không khoa học, dẫn đến đánh giá thiếu chính xác tình hình và khó sửa chữa khuyết điểm. Lần này chúng ta cần khắc phục tình trạng đó.
Trong khi rất nghiêm khắc với những sai lầm, khuyết điểm chủ quan, cần thấy đầy đủ cả những nhân tố khách quan, chú ý những khó khăn tác động vào công cuộc đổi mới của chúng ta để không quá sốt ruột trước tình hình chậm chuyến biến. Chúng ta hãy thử xem hai năm qua nước ta tiến hành đổi mới trong bối cảnh nào? Có phải trong bổi cảnh đất nước và thế giới có những thuận lợi nhưng cũng có vô vàn khó khăn, mà nổi bật nhất là nền kinh tế xã hội đang trên đà diễn biến xấu (có người nói là khủng hoảng nghiêm trọng)? Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp ăn sâu bám rễ trong hệ thống quản lý quá lâu chưa dễ phá bỏ được.
Những khuyết điểm sai lầm trong chính sách kinh tế và xã hội trước đó cộng với việc xử lý không đúng vấn đề giá lương tiền cuối năm 1985 đã để lại hậu quả rất tai hại. Nợ nước ngoài tăng lên và đến hạn phải trả. Sự bùng nổ dân số từ nhiều năm dồn tụ lại làm tăng sức ép vấn đề việc làm và đời sống. Hậu quả của mấy chục năm chiến tranh càng qua thực tiễn càng thấy nặng nề. Bao nhiêu vấn đề xã hội “hậu chiến” đòi hỏi phải giải quyết. Chỉ tính riêng khoản trợ cấp xã hội đối với mấy triệu người thuộc diện “chính sách” đã thấy đó là một khoản chi không nhỏ so với nền kinh tế tài chính của ta.
Trong khi đó, các lực lượng thù địch và phản động quốc tế chưa từ bỏ âm mưu và hành động phá hoại, bao vây, cô lập nước ta, gây cho ta biết bao khó khăn trong xây dựng kinh tế và cản trở việc khôi phục hòa bình ổn định trên bán đảo Đông Dương. Thực tế nước ta vẫn chưa thật sự có hòa bình; chúng ta vẫn phải duy trì một lực lượng quân đội và chi phí quốc phòng quá lớn.
Trên thế giới, chủ nghĩa xã hội đứng trước sự thách thức mới rất gay gắt về phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật, phải tự nhận thức lại mình để thay đổi chính sách. Sự nghiệp cải tổ và đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa tuy có giành được thắng lợi bước đầu nhưng chưa tạo ra chuyển biến căn bản. Có rất nhiều vấn đề mới đặt ra cần được nghiên cứu kỹ.
Với lòng mong mỏi nhanh chóng đổi mới để xoay chuyển cục diện kinh tế xã hội, toàn đảng toàn dân ta, từ cơ quan lãnh đạo cao nhất đến những người dân bình thường, có rất nhiều cố gắng và nỗ lực. Nhưng chúng ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm; trình độ tư duy còn nhiều hạn chế về cả chiều rộng lẫn chiều sâu; có những vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn chưa thật sáng tỏ.
2. Trong bối cảnh đó, chúng ta đã tiến hành đổi mới với không ít chật vật, khó khăn. Cần biết trân trọng, nâng niu những gì đã làm được, dù đó mới là thành quả ban đầu. Có phải hai năm qua nhân dân ta đã thu được một số kết quả sau đây:
Một là, đã dứt khoát chuyển hướng trong xây dựng cơ cấu kinh tế, đổi mới một bước cơ chế quản lý, bước đầu giải phóng sức sản xuất, phát triển sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Qua các số liệu thống kê trình bày trong Báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng trước kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa VIII, chúng ta thấy rõ ràng trên phạm vi cả nước đã bắt đầu hình thành rõ nét cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, phù hợp với quy luật phát triển của thời kỳ quá độ ở nước ta, tạo điều kiện đưa nền kinh tế đi vào thế phát triển năng động.
Cơ cấu ngành và cơ cấu đầu tư được điều chỉnh theo hướng tập trung cho ba chương trình kinh tế; xây dựng cơ bản đã tiến hành tập trung, dứt điểm và có hiệu quả hơn, cắt giảm và đình hoãn được nhiều công trình lớn chưa phù hợp với khả năng của nền kinh tế. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển khá.
Về cơ chế quản lý, trong điều kiện phức tạp của lạm phát, đã chuyển được phần lớn hệ thống giá bán lẻ và một phần giá tư liệu sản xuất sang hệ giá kinh doanh, linh hoạt tiếp cận thị trường theo cơ chế động. Đồng thời thực hiện một số đổi mới về tổ chức và cơ chế quản lý sản xuất, lưu thông phân phối và về cơ chế kế hoạch hóa. Những sự đổi mới này tuy còn hạn chế, nhưng đã tạo điều kiện cho cơ chế thị trường bắt đầu phát huy tác dụng tích cực trong khu vực kinh tế quốc doanh, thúc đẩy kinh tế quốc doanh hoạt động. Trong khu vực kinh tế tập thể, những đổi mới về cơ chế quản lý, cải tiến chế độ khoán, phát triển các hình thức liên kết, liên doanh cùng với việc nhà nước giảm bớt can thiệp trực tiếp, bỏ dần lối áp đặt trong việc giao kế hoạch, mua bán, định giá, v.v. đã đem lại sinh khí mới cho sản xuất hàng hóa, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Ý thức hạch toán và không khí kinh doanh trong xã hội thể hiện khá rõ. Những mô hình kinh doanh giỏi, năng động xuất hiện ngày càng nhiều.
Hai là, dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng, trở thành nhân tố bảo đảm cho nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới. Bầu không khí dân chủ hình thành trong quá trình chuẩn bị và tiến hành Đại hội VI của Đảng được tiếp tục phát triển. Xã hội bắt đầu làm quen với nếp sinh hoạt dân chủ: công khai phê bình, tự phê bình; thẳng thắn phê phán sai lầm, khuyết điểm; thảo luận rộng rãi, cởi mở, góp ý kiến với Đảng và Nhà nước về các vấn đề chung của đất nước, v.v.
Quá trình dân chủ hóa mới chỉ bắt đầu, nền dân chủ còn xa mới hoàn thiện, tình trạng vi phạm dân chủ trong xã hội, nhất là ở nông thôn còn phổ biến và nặng nề; trong quá trình mở rộng dân chủ, cũng xuất hiện một số lệch lạc cần uốn nắn. Tuy nhiên, đà dân chủ hóa được khởi động trong hơn hai năm qua đang trở thành động lực thúc đẩy đổi mới mọi mặt trong xã hội và đặt nền móng chuẩn bị cho những cải cách sâu rộng về hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, trong khi tiếp tục củng cố quốc phòng và an ninh chính trị của đất nước, giúp nhân dân Campuchia bảo vệ những thành quả cách mạng, chúng ta đã thực hiện một khối lượng lớn những công việc chuyển hướng chiến lược quốc phòng, tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân và công tác bảo vệ an ninh chính trị phù hợp với tình hình của đất nước.
Bốn là, hoạt động đối ngoại đã tạo ra khả năng dần dần phá vỡ thế bao vây của các thế lực thù địch quốc tế đối với nước ta, mở ra cơ hội khôi phục và phát triển quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác trên thế giới.
Những tiến bộ và nhân tố mới nói trên xuất hiện rõ dần, và bắt đầu từ nửa cuối năm 1988 trở đi tình hình kinh tế xã hội có sự cải thiện nhất định: hàng hóa trên thị trường nhiều lên, trật tự an toàn xã hội ở các thành phố lớn có tiến bộ, không khí giao dịch, chuẩn bị hợp tác với nước ngoài có phần nhộn nhịp...
3. Khẳng định và trân trọng những gì làm được, chúng ta đồng thời thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm sai lầm, chỉ ra những khó khăn tồn tại, những mặt còn yếu kém. Từ thực tế của đất nước, phải chăng chúng ta có thể kết luận: những tiến bộ đã đạt được trong hơn hai năm qua còn chưa cơ bản, chưa đem lại hiệu quả lớn và chưa biến đổi được thực trạng nghiêm trọng của tình hình kinh tế - xã hội.
Kinh tế phát triển với tốc độ quá chậm trong khi đó tỷ lệ tăng dân số mỗi năm vẫn ở mức trên 2%. Thu nhập quốc dân sản xuất năm 1987 chỉ gần bằng năm 1986, năm 1988 chỉ tăng 5,8% so với năm 1987. Sản xuất, đặc biệt là sản xuất lương thực không vững chắc; phân phối lưu thông vẫn rối ren, ngân sách nhà nước thâm thủng lớn, lạm phát vẫn ở mức độ rất cao, giá biến động hằng tuần, dự trữ quốc gia hao mòn, nợ nước ngoài lớn và không trả được, cơ sở vật chất kỹ thuật trong nhiều ngành kinh tế và sự nghiệp phúc lợi xã hội tiếp tục xuống cấp; khó khăn căng thẳng về đời sống của những người ăn lương trong khu vực hành chính sự nghiệp, trong bộ đội và công an vẫn chưa được giải quyết; nhiều mặt về xã hội vẫn xấu và làm nhức nhối lòng người. Xét trên phạm vi toàn nền kinh tế, sản xuất vẫn chưa đủ tiêu dùng, cơ chế kinh tế về căn bản chưa ra khỏi tình trạng tập trung quan liêu bao cấp.
4. Tổng kết kinh nghiệm không phải chỉ dừng lại kể lể sự việc, mô tả tình hình mà điều cực kỳ quan trọng là đánh giá đúng thực chất công việc, thực trạng mọi mặt của đất nước, từ đó rút ra những vấn đề có tính quy luật, khẳng định những quan điểm cơ bản để chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Phải chăng để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo đường lối Đại hội VI của Đảng vạch ra, sắp tới chúng ta cần thống nhất quan điểm trên một số vấn đề cơ bản sau đây:
a) Sản xuất hàng hóa là thuộc tính của chủ nghĩa xã hội; phát triển sản xuất hàng hóa là con đường tất yếu để đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội càng cần phải phát triển sản xuất hàng hóa. Đó là một tất yếu khách quan. Hàng hóa không phải chỉ là hàng tiêu dùng mà bao gồm tất cả những yếu tố tham gia các quá trình tái sản xuất (như tư liệu sản xuất, sản phẩm khoa học, kỹ thuật, tiền tệ...). Đặc trưng quan trọng của sản xuất hàng hóa là sự trao đổi tự do giữa những người sản xuất, giữa các thành phần kinh tế trong một thị trường xã hội thống nhất. Thị trường có cơ chế vận động theo các quy luật riêng của nó. Đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu thông tiền tệ. Thị trường không đối lập và tách rời kế hoạch của nhà nước, trái lại nó bổ sung cho kế hoạch, nó đóng vai trò vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch hóa.
Chính thực tiễn sinh động hai năm qua với những điển hình làm ăn tốt, có sức thuyết phục, cùng những kinh nghiệm thành công và không thành công đã giúp chúng ta thoát khỏi những phân vân, e ngại, lúng túng lúc ban đầu, dần dần nhận thức rõ hơn, sâu hơn vấn đề sản xuất hàng hóa ở nước ta.
b) Tiếp tục bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế. Đại hội VI của Đảng đã xác định những mục tiêu cơ bản của ba chương trình kinh tế, và coi đây là nội dung chủ yếu của công nghệ hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực tiễn hai năm qua cho thấy, muốn thực hiện tốt những mục tiêu này, phải sớm xác định chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội, trên cơ sở đó định rõ những cân đối và cơ cấu của từng ngành nghề, của từng vùng kinh tế; sắp xếp và sử dụng cơ sở hạ tầng, phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ, coi dịch vụ cũng là một bộ phận quan trọng của cơ cấu kinh tế.
Đổi mới cơ chế đầu tư theo hướng tập trung vốn của nhà nước cho một số công trình lớn và quan trọng, coi trọng việc huy động vốn của nhân dân, thực hiện nguyên tắc tự vay tự trả.
Nói chung, nền sản xuất xã hội phải được tự sắp xếp và tự điều chỉnh thông qua hợp tác, liên kết và cạnh tranh, theo quy luật của sản xuất hàng hóa. Nhà nước định hướng và dùng các biện pháp kinh tế là chủ yếu để thúc đẩy quá trình đó.
c) Phát triển kinh tế nhiều thành phần là vấn đề chiến lược lâu dài và có tính quy luật, thể hiện rõ tinh thần dân chủ trong lĩnh vực kinh tế. Trên cơ sở củng cố tốt kinh tế quốc doanh, tạo mọi điều kiện cho kinh tế quốc doanh phát triển vững chắc và đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, phải đồng thời phát triển mạnh các thành phần kinh tế khác dưới nhiều hình thức, cả trong lĩnh vực sản xuất lẫn trong lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ. Cho phép kinh tế tư nhân phát triển công khai, hợp pháp và không hạn chế về quy mô. Không nên định kiến và giản đơn cho rằng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể là “phi xã hội chủ nghĩa”, vì trong điều kiện hiện nay ở nước ta, các thành phần kinh tế đó hoạt động theo luật pháp, dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của nhà nước chuyên chính vô sản, ít nhiều chúng đã mang tính chất tư bản nhà nước (mà Lê-nin gọi là ba phần tư xã hội chủ nghĩa).
Việc xây dựng kinh tế quốc doanh chỉ tập trung vào những ngành và cơ sở quan trọng, có ý nghĩa then chốt đối với nền kinh tế quốc dân, có trình độ kỹ thuật tiên tiến và đòi hỏi vốn đầu tư lớn (như trong công nghiệp nặng, giao thông vận tải, bưu điện, ngân hàng...). Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh không nhất thiết phải thể hiện ở tỷ trọng lớn trong mọi ngành kinh tế, mà trước hết thể hiện ở sự dẫn dắt, chi phối đối với toàn bộ nền kinh tế.
Phải nhận thức đúng nội dung cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, không nên hiểu cải tạo chỉ là thay đổi chế độ sở hữu, xóa bỏ các hình thức kinh tế tư nhân, cá thể, mà còn là quản lý, hướng dẫn các thành phần kinh tế này hoạt động theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Với tinh thần chú trọng hiệu quả kinh tế, cơ sở quốc doanh nào không thuộc ngành then chốt, làm ăn thua lỗ kéo dài thì nhà nước có thể đấu thầu tài sản của cơ sở đó cho các đơn vị quốc doanh khác, cho tập thể hoặc cá nhân mua hay thuê; cũng như hợp tác xã nào quá kém nát, không có khả năng củng cố được thì có thể chuyển sang các hình thức sản xuất thích hợp hơn. Điều đó không làm suy yếu kinh tế quốc doanh và tập thể mà chính là nâng cao chất lượng và uy tín của kinh tế quốc doanh và tập thể.
d) Dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang thực hiện hạch toán kinh doanh, bảo đảm cho mọi đơn vị sản xuất, kinh doanh thoát khỏi sự điều khiển bằng mệnh lệnh hành chính quan liêu, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình.
Các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế, mà sử dụng luật pháp và các chính sách đòn bẩy kinh tế để hướng dẫn các đơn vị hoạt động theo phương hướng kế hoạch nhà nước.
Nói cách khác, nhà nước cần tập trung làm tốt chức năng quản lý “vĩ mô”: nghiên cứu và ban hành các chính sách, pháp luật; có biện pháp hình thành thị trường thống nhất trong cả nước; xây dựng pháp chế kinh tế và hệ thống tổ chức thi hành pháp chế đó; đổi mới công tác kế hoạch hóa; tổ chức hệ thống thông tin kinh tế; khoa học kỹ thuật, hoạt động dịch vụ và thông tin liên lạc; đào tạo bồi dưỡng cán bộ kinh doanh.
Đặc biệt, cần tập trung chống lạm phát bằng một hệ thống giải pháp tổng hợp, đồng bộ, gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý, ổn định nền tài chính quốc gia. Cần sớm khắc phục tình trạng bao cấp về giá và vốn qua ngân sách và qua tín dụng.
đ) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, thực hiện một chiến lược kinh tế “mở cửa”, đưa nền kinh tế nước ta dần dần hòa nhập vào thị trường thế giới, tham gia vào sự phân công lao động quốc tế. Thực tiễn ngày càng khẳng định rằng, không thể chỉ dựa vào nguồn tích lũy trong nước để ổn định tình hình kinh tế xã hội và đi lên. Phải đổi mới chính sách để phát triển mạnh kinh tế đối ngoại theo hướng chú trọng hiệu quả kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi và thông thoáng về môi trường kinh doanh, về xuất nhập cảnh, thông tin liên lạc..., cho người nước ngoài và Việt kiều vào Việt Nam đầu tư kinh doanh; chuyển các hoạt động xuất nhập khẩu sang hạch toán kinh doanh, chấm dứt việc dùng ngân sách nhà nước để bù lỗ. Nhà nước quản lý thống nhất mọi hoạt động kinh tế đối ngoại bằng chính sách và pháp luật.
e) Phát huy động lực khoa học kỹ thuật. Việc xóa bỏ cơ chế bao cấp, chuyển sang kinh doanh tất yếu đòi hỏi các cơ sở sản xuất kinh doanh phải cải tiến kỹ thuật, sử dụng các thành quả khoa học để phát triển sản xuất, tăng sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. Phần lớn các hoạt động khoa học cũng phải thực hiện hạch toán kinh doanh. Đổi mới chính sách và cách quản lý cán bộ khoa học kỹ thuật theo hướng khuyến khích nhân tài, trọng dụng tài năng nghiên cứu, ứng dụng.
Theo quan điểm kinh doanh, các cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật chủ động xác định đề tài nghiên cứu, ký kết hợp đồng, thực hiện liên kết, nhận đấu thầu, cạnh tranh, chào hàng, tự tạo nguồn vốn hoạt động. Khi kết quả nghiên cứu đưa vào ứng dụng thành công thì được mua bán theo nguyên tắc thỏa thuận; nếu hướng theo kết quả ứng dụng thì không bị giới hạn tối đa. Nói cách khác, nhu cầu sản xuất, thị trường tiêu thụ cũng là người định hướng nghiên cứu và nghiệm thu kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đồng thời tạo vốn và môi trường cho hoạt động khoa học kỹ thuật.
g) Thực hiện tốt chính sách xã hội, quan tâm đến nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội. Phải có hàng loạt biện pháp tích cực và cụ thể chăm lo cho đời sống nhân dân, đặc biệt là khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang và công an, sớm khắc phục tình trạng tiền lương không đủ sống và thu nhập quá bất hợp lý giữa các vùng, các ngành; giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm mạnh tốc độ tăng dân số; điều chỉnh cải cách giáo dục, từng bước ổn định và nâng cao chất lượng dạy và học, có thể cho mở trường dân lập và tư thục; chấn chỉnh công tác bảo vệ sức khỏe, tạo ra chuyển biến tốt về trật tự an toàn xã hội; bảo đảm công bằng xã hội.
Nhà nước chăm lo chính sách xã hội đồng thời động viên các địa phương và cơ sở nêu cao trách nhiệm, nghĩa vụ, tình thương đối với những người, những gia đình có công với cách mạng, neo đơn, tàn tật, gặp nhiều khó khăn. Trong điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa, chúng ta chấp thuận có sự làm giàu chính đáng của một số người, đồng thời phải thực hiện tốt chính sách phúc lợi xã hội, đấu tranh cho công bằng xã hội.
h) Tiếp tục thực hiện chuyển hướng công tác đối ngoại, quốc phòng và an ninh nhằm giữ vững hòa bình, tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội tại cơ sở; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân và tăng cường phòng thủ vững chắc trong thế trận chiến tranh nhân dân.
i) Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực thực tế của Nhà nước, phát huy vai trò tích cực và năng lực sáng tạo của nhân dân. Không thể mở rộng dân chủ, không đổi mới hệ thống lãnh đạo và quản lý thì không thể thực hiện được cải cách kinh tế.
Nội dung đổi mới hệ thống chính trị bao gồm nhiều mặt: xác định đúng vị trí, chức năng của mỗi tổ chức cấu thành hệ thống chính trị; sắp xếp lại tổ chức bộ máy; cải tiến phương thức và lề lối công tác; xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật; kiện toàn đội ngũ cán bộ. Tất cả các mặt công tác đó phải quán triệt tinh thần mở rộng dân chủ, làm cho nhà nước thể hiện đầy đủ hơn nữa ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của nhân dân.
Tiếp tục mở rộng dân chủ, tạo mọi điều kiện để phát huy dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng đó là dân chủ xã hội, dân chủ đi đôi với kỷ luật và pháp luật, dân chủ gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Những vấn đề cơ bản nêu trên cần được toàn đảng, toàn dân, các cán bộ lãnh đạo, cán bộ khoa học tiếp tục suy nghĩ, thảo luận và nêu kiến nghị với Trung ương, tạo cơ sở kết luận và thống nhất trong toàn đảng./.