Thu hồi tài sản tham nhũng - từ góc nhìn hoàn thiện thể chế và tính nhân văn của pháp luật

Thực tiễn công tác thu hồi tài sản của các vụ án tham nhũng, vụ án kinh tế lớn gây thất thoát tài sản của nhà nước trong thời gian qua cho thấy, tỷ lệ tài sản thu hồi được còn thấp. Điều này đặt ra yêu cầu cần xem xét lại tính phù hợp và cấu trúc của các quy định về thu hồi tài sản tham nhũng trong tổng thể hệ thống pháp luật để bảo đảm tính căn cứ, tính khả thi trong quá trình thu hồi tài sản.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật
Từ những “nút thắt”, rào cản đã nêu, việc cần thiết là phải rà soát, điều chỉnh, thống nhất các quy định về đăng ký, công khai tài sản; ban hành Luật Đăng ký tài sản. Chú trọng xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin tài sản đăng ký, thông tin đất đai, tài sản gắn liền với đất; kết nối thông tin giữa cơ quan quản lý tài sản với các cơ quan liên quan như thi hành án, thuế, ngân hàng.
Cần có thủ tục riêng biệt áp dụng để thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, trong đó trú trọng các biện pháp kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản, quy định thẩm quyền trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc thực hiện thủ tục thu hồi này để quá trình thực thi có đủ căn cứ và thống nhất áp dụng.
Cần sửa đổi Bộ luật Hình sự để: (1) Việc áp dụng các biện pháp thu giữ, tạm giữ, kê biên, phong tỏa tài sản được thực hiện linh hoạt về mặt thời điểm, đa dạng chủ thể có thể áp dụng các biện pháp này nhằn ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản -nguyên nhân chính làm cho quá trình thu hồi tài sản kém hiệu quả; (2) Hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp, hướng xử lý, thu hồi tài sản tăng thêm không giải trình được nguồn gốc.
Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng quy định trình tự, thủ tục riêng đối với hành vi làm giàu bất chính; bổ sung các quy định truy tìm dấu vết tội phạm. Quy định rõ vấn đề tài sản phạm tội trong trường hợp bị can, bị cáo chết, đình chỉ điều tra.
Đồng thời, mở rộng điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Ngoài ra, cho phép áp dụng một số biện pháp xử lý vật chứng từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vì những mục đích phát triển đất nước kịp thời.
Đặc biệt, cần xem xét giảm nghĩa vụ chứng minh trong thu hồi tài sản tham nhũng đối với những tội phạm về tham nhũng, nghĩa vụ chứng minh nguồn gốc hợp pháp của tài sản là trách nhiệm của người có chức vụ, quyền hạn.
Sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự, theo đó quy định cơ chế thi hành án đặc thù đối với khoản thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng.
Sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng theo hướng tách các quy định về kiểm soát tài sản của người có chức vụ, quyền hạn thành một đạo luật riêng biệt để kiểm soát, bổ sung nhóm quy định liên quan đến xử lý vấn đề tài sản tăng thêm mà người có chức vụ, quyền hạn không giải trình được nguồn gốc hợp pháp.
Ngoài ra, để công tác thanh tra, kiểm toán được thực thi hiệu quả, khuyến khích mỗi người dân đều có thể tham gia vào việc phòng chống tham nhũng và vấn đề thu hồi tài sản đã tẩu tán ra nước ngoài, cần xem xét, điều chỉnh Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tương trợ tư pháp.
Đặc biệt, đối với vấn đề tương trợ tư pháp, cần ban hành các dự án luật dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù, tương trợ tư pháp về hình sự, tương trợ tư pháp về dân sự; chú trọng các quy định nhằm tạo thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong việc ký kết các điều ước song phương và bảo đảm thực thi đầy đủ các điều ước quốc tế đa phương liên quan đến dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù, tương trợ tư pháp về hình sự, tương trợ tư pháp về dân sự để tăng cường công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt.
Áp dụng biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng không qua thủ tục kết án
Nhận thấy phương pháp tịch thu truyền thống chỉ giới hạn ở tài sản liên quan đến hành vi phạm tội cụ thể mà bị cáo đã bị kết án là không đủ để tước đoạt lợi ích bất chính của họ; các công cụ mạnh hơn như tịch thu không dựa trên kết án nên được xem xét áp dụng.
Ở Việt Nam, vấn đề thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội đã được đặt ra từ Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21-8-2006, Hội nghị Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Nghị quyết nói trên cũng đã được cụ thể hóa tại Chỉ thị số 04-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; pháp luật cũng đã có một số quy định trong việc xử lý tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, thu hồi tài sản vô chủ.
Nhìn kinh nghiệm thực tiễn, mỗi quốc gia có những biện pháp thu hồi (tịch thu) tài sản tham nhũng, có nguồn gốc từ tham nhũng tương đối khác nhau. Bên cạnh phương thức truyền thống là tịch thu tài sản dựa vào kết tội, nhiều quốc gia còn áp dụng phương thức thu hồi tài sản không dựa vào kết tội, chủ yếu áp dụng trong các vụ án tham nhũng.
Theo biện pháp này, cá nhân có thể không bị kết tội về một trong các tội phạm tham nhũng nhưng tài sản không giải trình được nguồn gốc hợp pháp vẫn có thể bị tịch thu dựa trên nguyên tắc cá nhân không thể hưởng lợi nhờ tài sản họ đã thủ đắc (lấy được) một cách bất hợp pháp, cho dù cá nhân đó chưa bị kết tội.
Hiện nay có khoảng 44 quốc gia trên thế giới áp dụng biện pháp này. Do đó, việc xem xét hoàn thiện về hình thức của pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội nên được xem xét áp dụng tại Việt Nam. Với các biện pháp tịch thu, thu hồi quyết liệt như trên được áp dụng, sẽ triệt tiêu được động cơ của loại tội này.Tính khoan hồng hướng thiện cũng là yếu tố làm cho vấn đề thu hồi đạt được kết quả cao
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thể hiện rõ quan điểm “chú trọng tới các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng” được nêu tại Nghị quyết Trung ương 3 khóa X.
Theo đó, Điều 40 của Bộ luật này quy định không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu: “Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”.
Ngoài ra, điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tình tiết “đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” là tình tiết xem xét ảnh hưởng đến mức độ hình phạt.
Luật Phòng chống tham nhũng quy định: “Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi, tịch thu tài sản tham nhũng; tài sản tham nhũng phải được trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước; người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát hiện hành vi đưa hối lộ thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ”.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự (được Quốc hội thông qua ngày 27-6 và có hiệu lực từ ngày 1-7-2025) đã mang đến những thay đổi đáng chú ý, đặc biệt là việc bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội danh, trong đó có 2 tội danh tham nhũng rất nghiêm trọng là tội tham ô tài sản (Điều 353) và tội nhận hối lộ (Điều 354).
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng hướng dẫn cụ thể hơn về việc xem xét miễn hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội tham nhũng nếu họ thành khẩn khai báo, chủ động nộp lại tài sản, khắc phục hậu quả, trừ trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Điều này khuyến khích người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả.
Việc bỏ hình phạt tử hình có thể khuyến khích người phạm tội thành khẩn khai báo, chủ động nộp lại tài sản để được hưởng khoan hồng, từ đó nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng cho nhà nước.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc tháo gỡ những “nút thắt”, rào cản sẽ tạo điều kiện tốt để pháp luật được đóng tròn vai cả răn đe và giáo dục./.










Các bài cũ hơn

