Thu hồi tài sản tham nhũng – từ góc nhìn hoàn thiện thể chế và tính nhân văn của pháp luật
Tú Ngân - Khánh Vân - Văn Huân
Mặc dù tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế ngày càng tăng, song theo Báo cáo tổng kết 10 năm công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022, cơ quan thi hành án dân sự các cấp thu hồi được gần 60.940 tỷ đồng/175.608 tỷ đồng, đạt 34,7%, riêng trong các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo trung ương theo dõi có gần 50.000 tỷ đồng được thu hồi, cũng chỉ đạt 41,3%.
Như vậy, vẫn còn khoảng 115 nghìn tỷ đồng chưa được thu hồi; riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo trung ương theo dõi còn gần 70 nghìn tỷ đồng cần được thu hồi. Nhiều vụ án lớn các cơ quan có thẩm quyền không thể thu hồi được tài sản bị tham nhũng vì người phạm tội đã tẩu tán hết tài sản hoặc không có khả năng thanh toán.
Số liệu trên cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa tài sản bị tham nhũng và tài sản đã được thu hồi. Hơn nữa, một phần số tiền thu hồi được là do người phạm tội hoặc thân nhân của người phạm tội tự nguyện khắc phục chứ không hoàn toàn do áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản dựa trên các quy định pháp luật hiện hành.
Bản thân việc thu hồi tài sản tham nhũng là một quá trình nhiều thách thức
Thực tế cho thấy các vụ án tham nhũng có tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân có quyền hạn chức vụ, khó xác định giá trị tài sản chiếm đoạt, xác định thiệt hại vì quy mô lớn và đã diễn ra trong thời gian dài trước khi bị phát hiện, xử lý. Do đó, người phạm tội có đủ thời gian để che đậy, tẩu tán hoặc sử dụng hết tài sản nên việc thu hồi không còn khả thi.
Do quan điểm, nhận thức trong việc giải quyết các vụ án tham nhũng chỉ nặng về tập trung điều tra, làm rõ hành vi phạm tôi, kết án chứ chưa thực sự quan tâm đến việc thu hồi tài sản nên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra vẫn chưa chú trọng việc xác minh tài sản. Đến khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì tài sản của bị can không còn làm cho quá tình thu hồi tài sản tham nhũng còn kịp thời và khả thi.
Ngoài ra, áp lực thời gian và thiếu hụt nhân lực dẫn đến nhiều bất lợi cho quá tình thu hồi tài sản. Ví dụ khó khăn xuất phát từ thời hạn truy tố ngắn, không có nhiều nhân lực nên kiểm sát viên gặp bất lợi trong việc tiến hành xác minh tài sản, tiến hành các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thu hồi tài sản. Bên cạnh đó, phần lớn tài sản tham nhũng được thu hồi chủ yếu từ người phạm tội hoặc thân nhân của họ tự nguyện khắc phục.
Một yếu tố cản trở nữa là vấn đề thi hành án đối với các vụ án tham nhũng. Giai đoạn thi hành án có tính chất quan trọng trong việc chuyển hoá các biện pháp tố tụng thành kết quả thu hồi tài sản, tuy nhiên tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng ở giai đoạn này còn thấp.
Một phần liên quan đến vấn đề xác định nguồn gốc tài sản để thực hiện việc tịch thu, thu hồi tiền, tài sản, mặt khác, do các giai đoạn tố tụng trước đó chưa làm tốt công tác kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản làm cho bị cáo đã che giấu, tẩu tán tài sản nên đến giai đoạn thi hành án thì xác minh không có điều kiện để thi hành án.Quy định của pháp luật chưa đầy đủ và đồng bộ
Một rào cản lớn có thể kể đến là quy định của pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng chưa được cụ thể để dễ dàng áp dụng và thực hiện, chủ yếu mang tính nguyên tắc chung nên quá trình áp dụng còn nhiều lúng túng, vướng mắc. Một số ví dụ điển hình như:
Bộ luật Hình sự chưa quy định về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm khi không giải trình được một cách hợp lý nguồn gốc; chưa hình sự hóa hành vi làm giàu bất chính.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn thiếu các biện pháp để bảo đảm việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng từ giai đoạn tiền khởi tố. Quy định thời điểm áp dụng biện pháp kê biên tài sản chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo; trong khi đó hành vi tham nhũng có thể đã được phát hiện từ các giai đoạn trước đó.
Do không có cơ sở kê biên nên người phạm tội có nhiều thời gian và cơ hội để tẩu tán tài sản, khiến việc thu hồi tài sản sau đó không còn khả thi.
Ngoài ra, biện pháp phong tỏa tài khoản mặc dù được áp dụng với người bị buộc tội trước khi khởi tố vụ án nhưng chỉ được áp dụng đối với người có tài khoản (có số dư) tại tổ chức tín dụng hoặc kho bạc nhà nước. Như vậy, hiện nay chưa có biện pháp tác động trực tiếp vào tài sản (không phải tiền trong tài khoản) của người bị buộc tội từ giai đoạn tiếp nhận nguồn tin về tội phạm.
Hiện nay, quy định tài sản bị tịch thu phải là tài sản liên quan trực tiếp đến tội phạm, trong khi trên thực tế, người phạm tội luôn tìm cách che đậy, chuyển quyền sở hữu tài sản ngay trong quá trình phạm tội nên quy định này cũng cần được xem xét điều chỉnh.
Ngoài ra, khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại. Trên thực tế, việc xác định này vô cùng phức tạp và mất thời gian.
Pháp luật về thi hành án dân sự chưa quy định trình tự, thủ tục riêng đối với việc thi hành các khoản thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, nhất là việc thi hành các biện pháp tư pháp liên quan đến tiền, tài sản (quy trình, thủ tục thi hành đối với các vụ việc loại này được áp dụng như đối với các vụ việc dân sự thông thường), do đó hạn chế hiệu quả thi hành đối với các vụ việc loại này.
Hiện chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, đơn vị với cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, thu hồi tài sản tham nhũng trong các lĩnh vực như ngân hàng, tài chính, đất đai, thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài.
Luật Tương trợ tư pháp của Việt Nam thiếu quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phối hợp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp thu hồi tài sản trong tố tụng hình sự, nhất là quy định liên quan đến phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch thu tài sản và xử lý tài sản do phạm tội mà có.
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, mỗi quốc gia có những cách thức thu hồi tài sản tham nhũng khác nhau, nhưng nhìn chung hiện nay có 4 phương thức phổ biến, bao gồm: (1) Thu hồi tài sản thông qua hình thức kết án; (2) Thu hồi tài sản không qua hình thức kết tội; (3) Thu hồi tài sản thông qua thủ tục hành chính; (4) Thu hồi tài sản thông qua thủ tục dân sự. Như vậy, tùy vào các điều kiện thực thi pháp luật khác nhau mà pháp luật các nước sẽ có cách thức thu hồi tài sản khác nhau.
Cho nên, việc tháo gỡ những “nút thắt” và áp dụng thêm những hình thức thu hồi tài sản tham nhũng từ thực tiễn các quốc gia khác trên thế giới sẽ là điểm sáng để làm cho việc thu hồi tài sản tham nhũng đạt được tỷ lệ cao hơn./.
Bài cuối: Để pháp luật tròn vai cả răn đe và giáo dục










Các bài cũ hơn

