Hành trình của hạt thóc và con chữ
Hoàng Trung Hiếu
Đại La, nơi Lý Công Uẩn dựng đế đô hưng vận nước, sáng nghiệp gia là khởi nguồn của nền văn minh lúa nước. Trời mở chính khí, đất tụ tinh hoa, chữ của thánh văn, quân của thần võ. Hẳn là do hạt thóc danh hiển đạt, con chữ trí phồn vinh.
Có phải đất Việt mưa nhuần nên thóc ngô ngọc báu, trời Nam mây sáng nên chữ nghĩa quyền uy? Hạt thóc và con chữ - vật chất và tinh thần - là 2 thứ mà tổ tiên tiền tổ của ta đã sở hữu nó, làm ra nó và hiểu được sức mạnh của nó.
Thóc và chữ, chữ và thóc cứ tiếp nối khôn lường, cứ lâu dài sáng mãi. Ông cha ta học chữ Hán để đánh Nguyên, đánh Minh, đuổi Thanh, lịch sử còn đó, dấu ấn còn lưu. Người Việt Nam học chữ Tàu đấu trí với Tàu “Vũ qua Bắc Hải”.
Chúng ta học chữ Tàu để Tàu phải nể trọng phong Lưỡng quốc Trạng nguyên (Mạc Đĩnh Chi). Ông cha ta học chữ Hán để sáng tạo ra chữ Nôm. Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam ta - dạy Hán văn để đào tạo những hiền tài, để nâng cao dân trí mang cốt cách và bản sắc văn hóa Việt Nam đó là Việt hóa Hán ngữ.
Mấy nghìn năm văn hiến của Tàu đã có ai viết được trường thiên đại luận như “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, đã có ai viết được thiên cổ hùng văn như “Cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi.
“Ngục trung nhật ký” của Bác Hồ cũng viết bằng con chữ vuông để cho người Tàu tự đọc. Viên Ưng - một nhà thơ lớn của Trung Quốc - đã ca vang: “chúng ta được gặp một tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó đã tỏa ánh sáng chói ngời trong một hoàn cảnh tối tăm”.
Hoàn cảnh có lúc tối tăm nhưng chữ vẫn sáng, thóc vẫn vàng. Đã thấu hiểu hạt thóc hạt vàng thì cho dù “trên đồng cạn” hay “dưới đồng sâu”, dù “mống Đông” (đoạn cầu vồng phía Đông chân trời) hay “vồng Tây” (chỉ cầu vồng phía Tây), lá lúa vẫn như lưỡi gươm thiêng chống đất chỉ trời.
Tính cách của người nông dân Việt Nam đều hội tụ ở thóc gạo “no cơm tẩm, ấm ổ rơm”, “lọt sàng xuống nia”. Không có cây nào mà lại gắn kết chặt chẽ với nhau giữa đất và nước như cây lúa. Cái hồn của văn hóa Việt Nam cứ âm thầm trong hạt thóc, cứ lặng tràn trong ẩm thực: cốm làng Vòng, rượu làng Vân, bánh tẻ làng Chờ, bánh phu thê Kinh Bắc...
Từ trong sâu thẳm của thời gian, từ trong bất diệt của cuộc sống, nhìn về phía xa xăm, nhìn lên phía trước, nhìn ra bốn phương, con chữ thông thái đã truyền đạt tất cả những gì là tinh hoa của dân tộc, của nhân loại vào túi càn khôn của quốc gia.
Hạt thóc chìm nổi cuồn cuộn từ những dòng sông chở nặng phù sa, từ những “cánh đồng quê chảy máu” viết lên bản hùng ca “lúa nhiều thắng lợi càng to, đồn Tây càng đổ câu hò lại vang”.
Pháp xâm lược, ta lại học chữ Pháp để đánh Pháp và thắng Pháp - 2 lần thắng Pháp. Hết quét giặc Bắc lại đuổi giặc Tây, phò xã tắc, giữ non sông. Phải chăng lúa gạo nhiệm màu, ngôn từ chiếu sáng?
Nghìn thu vẫn nhớ, muôn thuở không quên tấm gương Nguyễn Thái Bình đỗ xuất sắc trường Đại học Washington. Khi lên nhận bằng tốt nghiệp hạng danh dự tại Đại học Washington, tháng 5-1972, anh khoác tấm áo choàng và đeo ở trước ngực tấm biển ghi dòng chữ: “Đả đảo đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam”!
Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ đã gửi tới anh một bức thư ngỏ mời anh cộng tác và cho anh một tài khoản rất lớn. Nguyễn Thái Bình đã thẳng thắn tuyên bố: “tôi sang đây học vì nước tôi nghèo, vì miền Nam của tôi còn bị các ông xâm lược chứ không vì những thứ của cải đó. Tôi về nước tôi để đánh đuổi đế quốc Mỹ”. Nhà Trắng phải đưa anh về nước, nhưng khi máy bay đang hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất chúng đã sát hại anh.
Con chữ đã dạy ta đọc được những kỹ xảo lừa mị, những điều mê hoặc. Có lần máy bay trực thăng của Mỹ sà xuống sát mái nhà chị Út Tịch, nghiêng cánh ngó vào trong nhà kêu gọi chị Út đầu hàng.
Cái Bé con gái lớn chị Út khi đó mới 8 tuổi đang điều khiển đàn em ở dưới hầm thản nhiên trả lời: “Giải phóng quân mẹ mắc đi đánh Mỹ, giải phóng quân con không biết đầu hàng”.
Câu chuyện hiện thực 100% mà cứ như huyền thoại. Ngôn ngữ mà con chị Út trả lời cứ hồn nhiên như sắc cỏ, cứ thản nhiên như đất bồi mà có giá trị như ngọc báu phát quang, như thần linh chiếu ứng. Chúng ta học chữ Anh để hiểu Mỹ và còn dạy ta đuổi Mỹ. Con chữ không phải chỉ dạy ta tư duy mặt đất mà còn dạy ta tư duy trên bầu trời.
Hạt thóc nuôi con chữ, con chữ làm hạt thóc sinh sôi. Tôi lấy cách nhìn “tấc đất tấc vàng” để mà suy ngẫm về hạt thóc. Gieo một hạt thóc nảy lên một cây mạ, cây mạ lớn lên đẻ ra nhiều nhánh, đến thì con gái thì thụ thai làm đòng giữa đất trời mưa nắng.
Một hạt gieo xuống đất sinh ra trăm nghìn hạt trên bông, dưới nắng lửa mưa dông mà thóc vẫn mảy vàng. Nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa thời đánh Mỹ là cây bút tài hoa dùng con chữ viết về thóc gạo hay nhất, đúng nhất từ trước đến nay, “hạt vàng làng ta...” làm người đọc đều tôn vinh, nhà nông đều cảm phục.
Chúng ta học chữ ở trường, ở lớp, học cả dưới hầm sâu địa đạo. Học ở Trung Quốc, ở Liên Xô, ở Đức, ở Hungary, ở Ba Lan, Tiệp Khắc...
Chúng ta học ở Pháp, ở Anh, ở Nhật Bản và cả ở Mỹ. Mỗi con chữ dù vuông hay tròn, dài hay ngắn, có vần hay không có vần, hữu thanh hay vô thanh, của quốc gia này hay quốc gia kia, nhưng đến với người Việt Nam đều mang cốt cách và phương thức tư duy của người Việt Nam.
Nhiều trận đồ bát quái của Khổng Minh thời Tam quốc được diễn lại ở Việt Nam thời Bắc thuộc, Pháp thuộc rồi thời kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Bọn xâm lược đều chọn cửa sinh để cho tướng quân chúng vào trận.
Nhưng chúng lại không ra được cửa sinh vì trận đồ biến dạng mất hết phương hướng. Quân tướng hoang mang, hoảng loạn nên phải lao ra cửa tử, cửa tù.
Năng lực phát sáng của con chữ là do người sử dụng nó. Người Việt Nam ta, nhìn hạt thóc bằng con mắt mĩ cảm tâm linh, nhìn xuyên qua sắc thái tạo vật của càn khôn, thấm nhuần tinh thần văn hóa hạt thóc hạt vàng, tấc đất tấc vàng.
Tâm lý ấy có được là do thực nghiệm nội tâm. Hạt thóc, tấc đất hoà vào đời sống như máu thịt. Con chữ và hạt thóc chạm vào con mắt tinh thần bỗng trở nên huyền vị, biến hóa vô cùng. Mỗi con chữ thông qua người sử dụng đều chứa đựng năng lực toả sáng của nhân kiệt địa linh, văn minh đạo nghĩa.
Bằng con mắt trực giác tâm linh, người Việt Nam ta mới có thể nắm bắt vật chất (hạt thóc) tinh thần (con chữ) để xoay chuyển tình thế, để tung hoành trong thế trận càn khôn. Cái bại của kẻ xâm lược luôn luôn nằm trong tầm tư duy chiến lược của Lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu.
Chả thế mà những năm chống Mỹ, ông già ở Đất Mũi đã thờ 2 chữ Nhật Nguyệt (ghép lại 2 chữ đó thành chữ Minh). Con chữ của Việt Nam không chỉ là tư duy logic, tư duy hình tượng thông thường mà nhà trường Việt Nam, các thầy cô giáo đã dạy học trò sử dụng nó có những bước nhảy vọt, thăng hoa, khi thì chơi chữ (Nho học) khi thì nhãn huệ (Phật học) khi thì trực giác (Tâm linh).
Những con chữ mà ngành giáo dục đem đến cho học trò mở thông, khai sáng cách nhìn, cách nghĩ và cách hành động đầy sinh khí do trời vận động bốn mùa, do đất hóa sinh muôn vật và do người khôn ngoan định liệu.
Chúng ta đã đứng trên thềm của hội nhập, trên thềm của toàn cầu hóa, vấn đề con chữ (trí tuệ) không phải chỉ là sức mạnh mà còn là quyền lực, quyền uy. Đồng thời, thóc gạo vẫn là hạt vàng. Đừng bao giờ có ai đó lại lãng quên lời giáo huấn của tổ tiên “tích cốc phòng cơ”.
Đảng ta là Đảng cầm quyền. Nhất thiết cán bộ, đảng viên phải vượt lên chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ. Những nhà trí thức thực sự chắc chắn sẽ đem hết tài năng của mình: mang con chữ đậm sắc vàng của hạt thóc vào cuộc trường chinh mới, để làm cho dân giàu, nước mạnh, thỏa lòng mong ước của Bác Hồ kính yêu!









Các bài cũ hơn


