Gìn giữ và phát huy tinh hoa của nghệ thuật chèo trong đời sống đương đại
Hà Phương - Hương Sen
Sức sống mãnh liệt của chèo
Chia sẻ tại Hội thảo “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản trình diễn dân gian và nghệ thuật chèo trong xã hội đương đại” diễn ra ngày 23-11-2023 tại tỉnh Thái Bình, NSƯT, TS Lê Tuấn Cường - Phó Giám đốc phụ trách Nhà hát Chèo Việt Nam - cho biết, chèo là hình thức nghệ thuật độc đáo được sinh ra từ làng quê châu thổ Bắc Bộ, qua hàng nghìn năm gắn bó với đời sống của nông dân.
Với những đặc sắc riêng có trong nghệ thuật và tiềm ẩn nhiều giá trị thẩm mỹ, nhân văn, chèo không chỉ là món ăn tinh thần trong lúc thư nhàn của người dân quê chất phác, mà còn đi vào đời sống với những bài học sâu sắc về đạo lý, nhân sinh.
“Chính vì vậy, chèo luôn có sức sống mãnh liệt. Những vở chèo như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình - Dương Lễ, Tôn Mạnh - Tôn Trọng, Từ Thức, Trương Viên, Kim Nham, Chu Mãi Thần,... sẽ mãi là viên ngọc quý của sân khấu truyền thống Việt Nam”, NSUT, TS Lê Tuấn Cường khẳng định.
Chính vì hòa cảm trong mạch nguồn đời sống, văn hóa tinh thần của người Việt nên chèo chịu tác động sâu sắc trước những thăng trầm thời cuộc và sự biến đổi của xã hội.
Từ một loại hình văn hóa nghệ thuật sân khấu dân gian gắn với di sản làng, chèo được hiện đại hóa, đưa lên các sân khấu nhà hát với lối thể hiện bài bản, chuyên nghiệp.
Theo PGS, TS Trần Thị An - Khoa các Khoa học liên ngành, Đại học Quốc gia Hà Nội - từ việc xem diễn xướng các “mảnh trò” trên chiếu chèo xưa hay sân khấu chèo nay, có thể hiểu rõ mối quan hệ giữa trò và tích, giữa tả thực và ước lệ, giữa truyền thống và sáng tạo trong trình diễn chèo cũng như mối tương tác giữa người diễn - người xem. Qua đó, nhận diện sức sống của chèo và một loạt thay đổi trong chèo.
“Cuộc sống thay đổi, chèo cũng có nhiều biến đổi qua thời gian. Cấu trúc kịch bản chèo thay đổi, bài trí sân khấu thay đổi, thủ pháp nghệ thuật khi trình diễn chèo thay đổi, cách kể chuyện của sân khấu chèo thay đổi, các mảnh trò của các vở chèo truyền thống với tư cách là một “nam châm” hút khán giả đến với chiếu chèo cũng không còn vị trí như xưa nữa”, PGS, TS Trần Thị An nhận định.
Để tinh hoa của chèo được bảo lưu, kế thừa và sáng tạo
Theo TS Nguyễn Thị Thanh Phương - Viện Sân khấu-Điện ảnh, Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội - chèo không thể tách khỏi đời sống văn hóa. Nếu chèo cổ chỉ dừng lại ở việc diễn kể những câu chuyện trong dân gian, gắn với khung cảnh sinh hoạt văn hóa làng xã, với mục đích phê phán, giáo huấn đạo đức thì chèo đương đại đã cập nhật hiện thực cuộc sống.
Sự biến đổi của văn hóa, xã hội làm đối tượng phản ánh của chèo cũng phong phú, đa diện hơn, buộc chèo phải tự điều chỉnh để tìm ngôn ngữ biểu hiện, kéo theo sự biến đổi của nghệ thuật chèo trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, có những lúc, những thời điểm, do sự cách tân quá đà mà diễn xướng gần như mất hẳn yếu tố dân gian, vô tình đẩy chèo sang hình thức sân khấu mới.
Phân tích về sự cách tân này, PGS, TS Trần Trí Trắc - Phó Trưởng ban Ban Lý luận, Phê bình sân khấu, Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam - nhắc lại lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nghệ thuật của cha ông ta, hay lắm, tốt lắm, cố gắng mà giữ gìn. Nhưng chớ có “gieo vừng ra ngô”. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng “gieo vừng ra ngô” trong nghệ thuật sân khấu chèo cổ Việt Nam suốt nhiều thời gian qua là do các nghệ sĩ hiểu biết về sân khấu truyền thống còn quá ít, các nhà lý luận bàn về thể loại còn chung chung.
Theo ông, nghệ thuật sân khấu chèo cổ có nhiều giá trị quý giá, trong đó tư duy lãng mạn (tư duy hướng nội) và kết cấu tự sự chủ thể kép cùng kể chuyện theo miếng trò (thực - hư - đại thực) là những giá trị cơ bản nhất và cần bảo vệ, phát huy, kế thừa nhất. Cùng với đó, việc bảo vệ, phát huy giá trị di sản nghệ thuật chèo cần đặt trong định hướng phát triển văn hóa bền vững.
TS Trần Thị Minh Thu - Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam - cho rằng, điều quan trọng là bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật chèo cổ trên cơ sở nhận thức rõ, xác định đúng về những đặc trưng cơ bản làm nên giá trị của nghệ thuật chèo cổ. Điều này cần ở cả 3 đối tượng: nhà quản lý, nghệ sĩ/nghệ nhân và khán giả.
“Chúng ta giữ gìn cái hay, cái đẹp của nghệ thuật chèo cổ không chỉ là bảo vệ, mà còn là căn cứ để sáng tạo cái mới trên cơ sở kế thừa, phát huy giá trị nghệ thuật chèo cổ. Ngược lại, chúng ta kế thừa, phát huy giá trị nghệ thuật chèo cổ để sáng tạo cái mới cũng chính là giữ gìn, bảo vệ giá trị nghệ thuật chèo cổ không bị mai một mà tiếp tục duy trì sức sống lâu dài trong đời sống văn hóa đương đại”, TS Trần Thị Minh Thu cho biết.
Kinh nghiệm bảo tồn di sản trình diễn dân gian quốc tế cho chèo truyền thống
Tại hội thảo, GS, TS Zheng Xiao Yun - Trường Lịch sử và Văn hóa, Đại học Hồ Bắc, thành phố Vũ Hán (Trung Quốc) - chia sẻ về quá trình bảo tồn múa dân tộc ở làng Mạn Phi Long - một làng Thái thuộc Trung Quốc.
Theo truyền thống, điệu múa ở đây chủ yếu phục vụ các lễ hội Phật giáo như tết nguyên đán, ngày cúng chùa,... với màn biểu diễn đơn giản, một số người đàn ông chơi trống chiêng giống như trống voi đứng ở giữa, những người khác nhảy múa xung quanh.
“So với các điệu múa của người Thái trước năm 1980, hoạt động múa của làng Mạn Phi Long ngày nay đã bước vào thời kỳ phát triển hưng thịnh. Điều này không chỉ thể hiện ở nội dung diễn xướng mà còn ở việc diễn ra nhiều dịp hơn, tần suất biểu diễn nhiều hơn, múa làng ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân làng”, GS, TS Zheng Xiao Yun cho biết.
Trước những thách thức như thiếu một số quy chuẩn của múa Thái, thiếu sự độc đáo riêng, trong làng không có giáo viên dạy múa chuyên nghiệp và kế thừa múa, ông Zheng Xiao Yun cho rằng, điệu múa dân tộc tại làng Mạn Phi Long cần có sự quan tâm của các ngành liên quan trong việc hướng dẫn, giảng dạy và sáng tác. Một số người dân có nền tảng múa tốt cần được chọn để đào tạo trọng điểm làm trưởng nhóm múa. Điều quan trọng nhất là sự nhiệt tình sáng tạo và biểu diễn các điệu múa, sự đổi mới thực sự từ chính dân làng; người dân cũng cần nỗ lực nhiều hơn thay vì “bắt chước”.
GS, TS Heyja Ki - Trường Đại học Nghệ thuật Hàn Quốc, quyền Giám đốc nghệ thuật đoàn múa Trung tâm Gugak quốc gia - cho biết, từ việc thành lập đoàn biểu diễn Gugak trực tiếp, thành lập các trung tâm Gugak địa phương đến điều hành các hoạt động biểu diễn, học thuật, nghiên cứu, chấn hưng Gugak.
Liên quan đến nỗ lực giúp nghệ thuật chèo của Việt Nam được công nhận là di sản UNESCO, GS, TS Heyja Ki cho rằng, cần thành lập một tổ chức chuyên nghiệp về nghệ thuật chèo ở cấp độ nhà nước hoặc địa phương, trong đó giống như Gugak, phải có diễn viên và nhạc công biên chế để họ tập trung sản xuất biểu diễn mà không phải lo kiếm sống. Cần xây dựng hệ thống giáo dục đào tạo diễn viên và nhạc công để kế thừa nghệ thuật chèo.
“Đặc biệt, cho phép biểu diễn thường xuyên hoặc định kỳ để giới thiệu chèo đến công chúng. Cần cung cấp cho khách du lịch những chương trình biểu diễn, cho phép họ trải nghiệm chèo dưới hình thức biểu diễn thường xuyên và các buổi diễn đặc biệt cho những người đam mê chèo để họ hiểu bản chất môn nghệ thuật này. Chúng tôi đã nỗ lực rất nhiều để tạo ra những tác phẩm thương hiệu kể từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX. Chương trình biểu diễn nhạc tế lễ Jongmyo không chỉ trở thành tiết mục thường xuyên dịp cuối năm mà còn được chào đón nhiệt tình ở nhiều nước trên thế giới. Cuối cùng, cần nghiên cứu chuyên sâu không chỉ nghệ thuật chèo mà toàn bộ nghệ thuật biểu diễn truyền thống của Việt Nam; sáng tạo phổ biến nhiều tài liệu giảng dạy; phát huy tính sáng tạo của nghệ thuật chèo qua việc kết hợp nhiều thể loại nghệ thuật khác, giúp nâng cao tính đại chúng cho âm nhạc truyền thống”, GS, TS Heyja Ki nhấn mạnh./.









Các bài cũ hơn

