Cái tết nhớ đời
MẠNH THẮNG(ghi theo lời kể của cựu chiến binh Mai Trí Bảo)

1. Chúng tôi mải miết làm việc cho đến lúc ớ ra cái tết nguyên đán đã đến cận kề. Hôm ấy là ngày 12-2-1972, tức là ngày 28-12 năm Tân Hợi, chỉ còn 3 ngày nữa là Tết Nhâm Tý tràn về. Lúc này, cả phân đội (12 người) chỉ còn một ruột tượng gạo mà không thấy quân nhu đâu. Chúng tôi đang bàn phương án phân công một tổ đi tìm, đào củ mài, củ tím để cầm cự, còn 2 người quay về đơn vị xin cấp phát gạo. May thay, hôm sau quân nhu Trung đoàn đến đưa cho một tờ phiếu và chỉ đường đến kho gạo.
Sáng sớm 30 tết, 6 người chúng tôi hăm hở lên đường đến kho gạo cách chừng 1,5 ngày đường. Chiều 30, dừng chân trên một ngọn núi có nhiều cây bống báng, chúng tôi chặt lấy ngọn rồi bóc nõn và cho vào xào, ăn thay cơm.
Trên đường đi, thi thoảng chúng tôi gặp những người lính cũ. Trông họ ốm yếu, mắt trắng môi thâm, da xanh lét. Điều ấy chứng tỏ họ đã chiến đấu gian khổ lâu năm trên chiến trường Tây Nguyên, phải chống chọi với những cơn sốt rét ác tính quái ác. Nhìn họ, tôi lại nhớ đến hoàn cảnh của mình.
Năm 1970, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn quyết liệt, tôi xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ và được biên chế vào Trung đoàn 675, rồi được cử đi học lớp trinh sát đo đạc. Lúc ấy, tôi mới 17 tuổi, người lẻo khoẻo, da trắng xanh. Thấy tôi gò lưng lê từng bước chân nặng nhọc trên đường, mấy anh lính cũ nhìn tôi ái ngại nói:
- Mày khó mà vượt qua được dãy Trường Sơn này...
Tôi chặc lưỡi:
- Thôi biết vậy! Em sẽ cố gắng bao giờ gục hẳn mới thôi!
Nhưng lạ thay, càng đi tôi càng dẻo dai ra, không bao giờ tụt tạt dọc đường. Thấy anh Huân leo dốc nhễ nhại mồ hôi, nhẫn nại lê từng bước, tôi thương quá liền với tay nhấc khẩu AK báng gấp trên ba lô để mang hộ. Nhưng khi nghỉ giải lao, anh giằng lại và nói:
- Mày hơn gì tao mà đòi mang hộ, cứ kệ đấy tao sẽ cố.
Hành quân đã vất vả, chúng tôi còn bị cái đói hành hạ. Sức lực tôi là vậy nhưng ăn khỏe lắm. Mỗi khi ăn xong, tôi đều dành phần rửa nồi, mục đích là để vét hết những hạt cơm còn dính. Mãi rồi sự việc cũng bại lộ. Một hôm, khi tôi đang mải mê thưởng thức thành quả thì Thanh vớ được, nó cười ngặt nghẽo và nói:
- Tao tưởng mày nhận phần rửa nồi để giúp anh em, té ra là để vét cơm nguội.
Tôi cười gượng gạo chống chế:
- Tao vét cơm là thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đấy.
Rồi hai đứa cùng cười xòa và càng thương nhau hơn.
Vì đói, vì mệt, lính ta ì ra không leo nổi dốc. Bác Tằng - Đại úy, Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn, chỉ huy đoàn quân - thương lính quá bèn nghĩ ra một cách là báo tăng quân số. Từ đó, lính ta mới được kha khá cái bụng. Nhưng cũng vì chuyện này mà khi bại lộ, bác Tằng đã bị kỷ luật.
Năm ấy, bác đã 40 tuổi rồi, người cao lớn, tính tình xởi lởi, nói năng bỗ bã. Thấy bác hăng hái, luôn luôn dẫn đầu đoàn quân, đốc thúc lính ta vượt núi băng đèo, cánh lính chúng tôi rỉ tai nhau:
- Chắc thủ trưởng có sâm nên khỏe thế.
Chuyện đến tai bác, bác tức quá nói:
- Không cái khổ nào giống cái khổ nào, cái gì cũng Tằng. Không đi được cũng Tằng. Sốt rét cũng Tằng. Không ăn được cũng Tằng. Cố sống cố chết leo dốc nó lại bảo mình có sâm... Đây này! Tao có củ sâm 40 năm đây này, thằng nào đến xem thì xem?
Cả đoàn quân cười lăn cười lóc và từ ấy càng thương bác hơn, tất cả răm rắp nghe theo lời bác, vượt núi băng đèo vào tới chiến trường đúng thời gian quy định.
Những cuộc hành quân liên miên cộng với ăn uống kham khổ thiếu chất, rồi muỗi rừng đốt chích, một số người đã bị sốt rét hành hạ. Những ai bị sốt nhiều, người xanh như tầu lá, mắt trắng môi thâm, chân tay run lẩy bẩy, đi lại không vững.
Tôi còn nhớ anh Lương cùng quê bị sốt nặng quá, đơn vị phải thay nhau cáng trên vai. Khi dừng chân, tôi chạy lại hỏi thăm thì anh khóc và thều thào nói:
- Tao chắc khó qua khỏi mày ạ, mấy ngày nay chẳng ăn uống gì cả, cứ nôn suốt. Nếu mày còn sống mà trở về thì nhớ nói lại với bà già tao là giỗ tao vào ngày này nhé.
Nói xong anh lịm đi, tôi ôm lấy anh mà khóc chẳng nói được câu nào. May thay sau đợt ấy, anh qua khỏi và tiếp tục bước vào cuộc chiến cùng chúng tôi.
2. Khoảng 10 giờ trưa mồng 1 tết, chúng tôi tới kho gạo, chìa tờ phiếu ra, người lính coi kho cầm tờ phiếu lật đi lật lại một hồi rồi nói:
- Phiếu này không phải do kho tôi cấp, các đồng chí đến kho khác lấy nhé!
Chúng tôi ớ người ra rồi hỏi:
- Thế kho ấy ở đâu?
- Tôi không biết!
Nghe người coi kho nói vậy, chúng tôi chết đứng như Từ Hải lúc sa cơ. Rừng núi mênh mông thế này, biết tìm kho gạo ở đâu, rồi lấy gì mà ăn đây. Thế là tất cả túm vào năn nỉ người lính coi kho, nào là thông cảm, nào là linh động, nào là mấy ngày nay phải nhịn đói, phải ăn củ mài, củ tím thay cơm...
Nhưng người coi kho cứ lắc đầu quầy quậy. Anh ta cũng đưa ra hàng tá lý do. Nào là cấp cho chúng tôi thì lấy đâu ra gạo để cấp cho đơn vị khác, nào là làm trái nguyên tắc sẽ bị kỷ luật rất nặng... Giữa lúc ruột rối như tơ vò thì chợt thằng Minh “ba hàm” reo lên:
- Ơ! Anh Sởi. Sao anh lại ở đây, anh còn sống à, năm ngoái ở quê làm lễ truy điệu anh to lắm, chị và các cháu khóc hết cả nước mắt.
Người lính coi kho ngẩn người trong giây lát rồi vồ lấy hai tay thằng Minh vừa lắc, vừa hỏi:
- Cậu là ai, làm sao lại biết tên tớ, làm sao lại báo tử tớ?
- Em đây! Em là thằng Minh ở làng Bèo, Vĩnh Long, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa đây. Chị ở nhà vẫn khỏe, hai đứa nhà anh lớn tướng rồi, ông bà nội vẫn cày cấy tốt, anh ạ!
Thế là hai người đồng hương cùng làng cứ xoắn xuýt lấy nhau nói chuyện nhà, chuyện xóm rôm rả cả một góc rừng. Một lúc sau chuyện trò đã vãn, anh Sởi quay sang chúng tôi và nói:
- Tớ không thể cấp gạo cho đơn vị các cậu được, nhưng các cậu có thể lấy một ít ăn tạm để đi tìm kho khác nhé!
Chúng tôi mừng rơn và chỉ chờ có thế là nhào vô xúc lấy, xúc để chỉ sợ anh Sởi đổi ý. Sau khi mỗi người làm được lưng lửng ba lô gạo, chúng tôi cám ơn anh Sởi rồi hối hả quay về ngọn núi ban sáng, vội vã nổi lửa để nấu cơm ăn tết. Tuy không có sơn hào hải vị gì, nhưng một bữa cơm no sau bao ngày đói khát là hạnh phúc lắm rồi.
Từ đó đến nay tôi đã trải qua bao cái tết thăng trầm, nhưng cái Tết Nhâm Tý 1972 mãi mãi in đậm không thể phai mờ. Ngày nay, đất nước hòa bình, không còn chiến tranh, không còn bom rơi, đạn nổ, không còn hy sinh, thiếu thốn, nhưng tôi thấy nhiều người rất lãng phí trong chi dùng cá nhân.
Nhiều người dù không có việc làm ổn định, dù thu nhập thấp, bấp bênh, nhưng vẫn cố vay mượn để mua xe máy đẹp, điện thoại thông minh đắt tiền. Đây chính là nguyên nhân gây ra tệ nạn khi cuộc sống quá bí bách. Tôi mong câu chuyên về cái tết với một bữa cơm no và những tháng năm quân ngũ gian khổ của người lính trong chiến tranh kể trên sẽ tiếp thêm cho bạn đọc nghị lực, sống tiết kiệm và có những mùa xuân ngập tràn hạnh phúc./.









Các bài cũ hơn


