Vững vàng Việt Nam!
Năm 2023, trong bối cảnh chưa thoát khỏi đại dịch COVID-19 và những hệ lụy kéo dài của nó, chưa thấy giải pháp ngăn chặn cuộc suy thoái kinh tế thế giới do xung đột Nga - Ukraina; thế giới thêm một điểm nóng xuất hiện, ngăn trở tiến trình phục hồi kinh tế, khi cuộc chiến giữa Israel và phong trào Hamas nổ ra. Trong bối cảnh ấy, những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, những xung đột chính trị, bất ổn vẫn gia tăng ở một số khu vực, những thay đổi trong mối quan hệ giữa các nước lớn cùng sự dịch chuyển địa - chính trị, địa - kinh tế trong chính sách của nhiều quốc gia, châu lục khiến thế giới ngày càng trở lên bất ổn, khó lường hơn.
Trong gam màu xám ảm đạm ấy, Việt Nam không thể đứng ngoài những tác động tiêu cực của tình hình thế giới. Tuy nhiên, thêm một năm nữa, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng toàn cầu. Nổi bật, điểm nhấn trong năm qua chắc chắn là các hoạt động đối ngoại, thu hút sự chú ý của cả thế giới khi lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có 45 chuyến thăm tới các nước láng giềng, những đối tác chiến lược, hầu hết thành viên ASEAN, nhiều đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống. Ở chiều ngược lại, Việt Nam tiếp đón gần 50 lãnh đạo các nước, trong đó có những chuyến thăm lịch sử như chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden; chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình... Cũng chỉ trong năm 2023, Việt Nam đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện với 2 cường quốc là Mỹ và Nhật Bản...
Những hoạt động đối ngoại nổi bật, được truyền thông quốc tế lan tỏa sâu rộng ấy thêm một sự khẳng định rằng, Việt Nam đã tạo nên bước phát triển mới về chất trong đối ngoại và hội nhập quốc tế. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khẳng định, công tác đối ngoại và ngoại giao đã khẳng định rõ bản sắc “ngoại giao cây tre Việt Nam”, là một điểm sáng nổi bật trong thành tựu chung của đất nước. Chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thủy chung, chân thành, là đối tác tin cậy, tích cực lại nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay.
Vị thế, uy tín và hình ảnh Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động càng được thừa nhận hơn khi trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế thế giới, chúng ta tuy không đạt mục tiêu đề ra, nhưng tỷ lệ tăng trưởng vẫn được coi là điểm sáng trên thế giới. Theo Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), GDP năm 2023 ước tính tăng 5,05%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 2,87% và 2,55% của các năm 2020 và 2021 trong giai đoạn 2011 - 2023. Sở dĩ mức tăng 5,05% đã được coi là điểm sáng, bởi Liên minh châu Âu (EU) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 đạt 3,1%, thấp hơn mức tăng 3,3% của năm 2022; trong khi tỷ lệ mà Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra là 3,0%, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo là 2,9%, Ngân hàng Thế giới (WB) là 2,1%...
Trung tâm tư vấn CEBR (Anh) đánh giá, Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 34 năm 2023 với quy mô GDP 430 tỷ USD và sẽ đứng vị trí thứ 21 toàn cầu vào 2038. Với ưu thế dân số đông và trẻ, Việt Nam có cơ hội vượt qua hầu hết các nước trong ASEAN về kinh tế như Singapore, Thái Lan hay Malaysia và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. CEBR nhìn nhận, Việt Nam tăng trưởng mạnh, lạm phát duy trì ở mức thấp (4,16%), tức là chưa phải đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát như nhiều quốc gia khác...
Để có được một Việt Nam vững vàng trong sóng gió, thường xuyên gia cố, nâng tầm vị thế trên trường quốc tế, Đảng ta luôn kiên trì, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới. Con đường ấy ngày càng rõ ràng, thuyết phục hơn, được thể hiện sinh động hơn trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” tổng hợp 29 bài viết, bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kể từ khi chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng đến tháng 2-2022 - thời điểm ra mắt cuốn sách. Cuốn sách là tài sản quý giá của Đảng, của dân tộc, bởi đó là sự tổng hợp thực tiễn, đúc rút lý luận định hướng một số lĩnh vực trọng yếu của cách mạng Việt Nam; là nguồn sáng soi tỏ, tạo niềm tin vững chắc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chúng ta không hề tự nói về mình, đó là những gì cả thế giới đều chung nhận định về tầm vóc, uy tín, vị thế, cơ đồ của Việt Nam. Chúng ta cũng biết rõ những tồn tại, yếu kém cần khắc phục, sửa chữa. Đó là lý do chúng ta chú trọng, thường xuyên thực hành công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết, kiên trì, quyết liệt phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Chúng ta vừa xây, vừa sửa, vừa khắc phục để ngày càng hoàn thiện mình, nói cách khác, chúng ta chú trọng “bắt bệnh” để “trị bệnh” kịp thời, hiệu quả. Chúng ta tự hào nhưng không hề ảo tưởng, không tự ru ngủ mình... Và như thế, chúng ta tiếp tục có quyền hy vọng mạnh mẽ vào một Việt Nam vững vàng, ngày càng vững vàng hơn nữa trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước của dân, do dân, vì dân.
Đó chính là lý do Hồ sơ sự kiện lựa chọn chủ đề “Vững vàng Việt Nam” cho giai phẩm đặc biệt Xuân Giáp Thìn 2024, như một món quà nhỏ bé, ý nghĩa để trân trọng dành tặng bạn đọc mùa xuân này, thay lời biết ơn chân thành, sâu sắc vì sự đồng hành cùng chúng tôi suốt thời gian qua, cũng như trong tương lai, cả phiên bản in, cũng như phiên bản điện tử và trên nền tảng mạng xã hội!
Trân trọng!
Vững vàng Việt Nam
Không còn quá nhiều những khó khăn như năm 2022 - năm “hậu đại dịch” đầu tiên - nhưng năm 2023, việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn phải đối mặt với không ít thách thức từ những yếu tố bất lợi bên ngoài cũng như những hạn chế, bất cập nội tại. Trên thế giới, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các cuộc xung đột ở nhiều khu vực vẫn khá “nóng bỏng”; kinh tế toàn cầu chưa phục hồi hoàn toàn; lạm phát còn ở mức cao; thương mại toàn cầu bị thu hẹp; thiên tai, biến đổi khí hậu gây hậu quả nghiêm trọng...
Ở trong nước, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế; dịch bệnh, thiên tai diễn biến phức tạp, gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, Việt Nam đã thực hiện hiệu quả phương châm “Đoàn kết, kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả” để vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đề ra với nhiều kết quả tích cực trên các lĩnh vực và tiếp tục được xem là điểm sáng của kinh tế toàn cầu.
I. NHỮNG “CƠN GIÓ NGƯỢC”
Thế giới vẫn “nóng”
Không chỉ được ghi nhận là một năm có mức nhiệt độ cao kỷ lục, thế giới năm 2023 còn thực sự “nóng” lên bởi rất nhiều cuộc xung đột.
Cuộc chiến lớn ở châu Âu giữa Nga - Ukraina
Bắt đầu từ “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga nhằm “phi quân sự hóa” Ukraina và bảo vệ người dân ở Donbas được tiến hành từ cuối tháng 2-2022, trong năm 2023, cuộc chiến của Nga tại Ukraina vẫn tiếp tục leo thang. Trong khi Nga đã giành được thắng lợi vào tháng 5 trong một cuộc giao tranh dài và đẫm máu nhất để kiểm soát Bakhmut và các lực lượng của Moscow vẫn chi phối chiến trường và quyết tâm ngăn Ukraina tiến công qua các phòng tuyến của nước này, các cuộc phản công của Ukraina được xem là kém hiệu quả. Điều đó khiến khoảng 1.000km tiền tuyến hầu như không có sự dịch chuyển trong năm qua.
Theo nhiều nguồn tin khác nhau, sau 22 tháng xung đột, phía Nga đã phải gánh chịu nhiều thiệt hại, trong đó khoảng 300.000 binh sĩ thương vong (trước đó, Nga chỉ chính thức thừa nhận khoảng 6.000 binh sĩ thiệt mạng). Vào tháng 10-2023, Nga tuyên bố Ukraina đã mất 90.000 binh lính chỉ trong tháng 6, khi bắt đầu cuộc phản công mới nhất. Còn theo Phái đoàn Giám sát nhân quyền Liên hợp quốc tại Ukraina, tính đến cuối tháng 11-2023, cuộc chiến đã khiến ít nhất 10.000 thường dân Ukraina thiệt mạng và hơn 18.500 người bị thương.
Giới quan sát phương Tây cho rằng, Tổng thống Nga Vladimir Putin đang “câu giờ” khi đặt cược rằng sự ủng hộ của Mỹ và châu Âu cho Ukraina sẽ dần suy giảm do những chia rẽ chính trị trong nước và sự mệt mỏi vì cuộc xung đột kéo dài cũng như ảnh hưởng từ các điểm nóng khác trên thế giới, đặc biệt là cuộc xung đột giữa Israel và Hamas tại Trung Đông. Các cuộc phản công lớn của Ukraina đã không giúp nước này đẩy lùi quân Nga, mặc dù các nước phương Tây đã huấn luyện và hỗ trợ nhiều vũ khí hiện đại. Bên cạnh đó, các lệnh trừng phạt của phương Tây mặc dù có tác động nhất định nhưng không thể làm sụp đổ nền kinh tế Nga.
Không giành được những chiến thắng căn bản trên chiến trường, nhưng Kiev đã cho thấy khả năng tấn công vào phía sau phòng tuyến đối phương như các cuộc tấn công bằng tên lửa và UAV nhằm vào một cây cầu quan trọng của Nga nối với bán đảo Crimea, các kho nhiên liệu và sân bay của Moscow cũng như trụ sở của Hạm đội Biển Đen ở Sevastopol. Ngoài ra, chính nước Nga cũng có những rạn nứt, thể hiện qua cuộc binh biến của Tập đoàn lính đánh thuê Wagner vào tháng 6. |
Với sự bế tắc về ngoại giao và quân sự của cả hai phía, nhiều chuyên gia cho rằng cuộc xung đột này chưa thể sớm kết thúc.
“Điểm nóng” Gaza
Bên cạnh những lo ngại về diễn biến cuộc xung đột giữa Nga và Ukraina, những tháng cuối năm, dư luận thế giới càng thêm lo lắng trước tình hình tại Dải Gaza, sau khi phong trào Hamas - nhóm vũ trang Hồi giáo người Palestine đang kiểm soát - bất ngờ tấn công vào lãnh thổ Israel hôm 7-10, làm khoảng 1.400 người thiệt mạng, hơn 2.000 người bị thương và bắt khoảng 240 người làm con tin.
Ngay sau cuộc tấn công, Israel đã lập tức tuyên bố tình trạng chiến tranh và tiến hành các hành động trả đũa vào Dải Gaza. Theo tuyên bố của Hamas, các cuộc tấn công của Israel đã cướp đi mạng sống của khoảng 18.000 người Palestine, làm gần 50.000 người khác bị thương; đồng thời khiến hàng triệu người dân Palestine ở Gaza phải đối mặt với thảm họa nhân đạo vô cùng nghiêm trọng khi hàng loạt cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng y tế, bị phá hủy; nguồn cung thực phẩm và nguyên liệu bị cắt đứt...
Cuộc chiến ở Dải Gaza khiến nguy cơ khu vực này ngày càng thêm chia rẽ, thậm chí lún sâu vào vòng xoáy bạo lực, lớn hơn bao giờ hết. Mặc dù các cuộc đàm phán ngừng bắn giữa hai bên do Qatar làm trung gian đang được xúc tiến, nhưng các cuộc giao tranh giữa hai bên vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.
Ngoài 2 “điểm nóng” trên, tình trạng xung đột, bạo lực viễn tiếp tục xảy ra ở nhiều khu vực trên thế giới như xung đột giữa Armenia và Azerbaijan; xung đột tại Sudan giữa Lực lượng vũ trang Sudan và Lực lượng hỗ trợ nhanh bán quân sự; căng thẳng giữa CHDC Congo và Rwanda; bạo lực thánh chiến ở Somalia và Sahel... Trong khi đó, những bất ổn vẫn hiện diện ở nhiều quốc gia như Syria, Yemen, Libya, Thổ Nhĩ Kỳ, Myanma, Afghanistan... |
Trước những rủi ro về địa - chính trị, kinh tế toàn cầu năm 2023 luôn trong tình trạng khá mong manh, dễ bị tổn thương.
Mặc dù trong nửa đầu năm 2023, nền kinh tế toàn cầu đã đạt tốc độ tăng trưởng 3,1% - cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với nửa cuối năm 2022 - nhưng bước sang quý III, tăng trưởng đã chậm lại ở nhiều nền kinh tế phát triển, đặc biệt là ở châu Âu. Tính đến hết tháng 9, nền kinh tế khu vực eurozone chỉ tăng trưởng 0,1% và một số quốc gia đã chứng kiến sản lượng sụt giảm so với cùng kỳ. Tăng trưởng ở Trung Quốc không ổn định kể từ khi mở cửa trở lại nền kinh tế vào đầu năm 2023, trong bối cảnh áp lực liên tục trong lĩnh vực bất động sản, nhưng đã ổn định trong quý III nhờ việc thực hiện một loạt biện pháp chính sách.
Theo ghi nhận của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), một loạt diễn biến gần đây cho thấy tăng trưởng đã bắt đầu mất đà ở nhiều nền kinh tế, bao gồm: chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) yếu ở nhiều nền kinh tế lớn; tăng trưởng tín dụng chậm lại ở nhiều nền kinh tế và niềm tin của người tiêu dùng luôn ở mức thấp. Với những diễn biến đó, đa số các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng năm 2022.
Một khó khăn nữa trong năm 2023 là mặc dù lạm phát toàn cầu đã giảm nhưng vẫn đứng ở mức cao (khoảng 6,8%), theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Đặc biệt, lạm phát cơ bản (không bao gồm lương thực và năng lượng) có mức giảm nhỏ hơn lạm phát chung và lạm phát giá dịch vụ vẫn nghiêm trọng hơn lạm phát giá hàng hóa.
Ngoài ra, Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cho biết, thương mại toàn cầu năm 2023 chỉ đạt khoảng 30.700 tỷ USD, giảm gần 2.000 tỷ USD so với năm 2022. Nguyên nhân là do hoạt động xuất khẩu của một số nền kinh tế chững lại do nhu cầu toàn cầu suy yếu, tăng trưởng chậm lại ở các nền kinh tế Đông Á và giá hàng hóa giảm; lãi suất duy trì ở mức cao ở một số nền kinh tế; xung đột và căng thẳng địa - chính trị dai dẳng khiến thị trường bất ổn hơn.
Thống kê của các tổ chức tài chính quốc tế cũng cho thấy, nợ toàn cầu đến cuối năm 2023 có thể lên tới 310.000 tỷ USD; trong đó nợ chính phủ có mức tăng lớn nhất. Trong bối cảnh đó, điều kiện tài chính toàn cầu cũng có xu hướng hạn chế hơn khi chính sách tiền tệ thắt chặt tiếp tục tạo áp lực cho một số ngân hàng; đồng thời hạn chế khả năng vay của các doanh nghiệp. Chi phí đi vay ngày càng cao cùng với việc các khoản trợ cấp từ giai đoạn đại dịch COVID-19 chấm dứt cũng đã khiến cộng đồng doanh nghiệp trên thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi làn sóng phá sản xảy ra chưa từng thấy trong nhiều thập niên, với tốc độ 2 con số. Trong đó, tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp Mỹ tăng 30% trong 12 tháng, tính đến tháng 9, so với cùng kỳ năm 2022. Trên toàn EU, số công ty phá sản trong 9 tháng tăng 13% so với cùng kỳ năm 2022 - mức cao nhất trong 8 năm. |
II. CHỦ ĐỘNG, LINH HOẠT TRONG KHÓ KHĂN
Chủ động vào cuộc
Xác định năm 2023 là năm giữa nhiệm kỳ, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025; trên cơ sở các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội; ngay từ đầu năm, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023.
Tại Nghị quyết này, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương phải quyết tâm, giữ vững tinh thần vượt khó, đoàn kết, tự lực, tự cường, chủ động thích ứng, linh hoạt, hành động quyết liệt, khoa học, hiệu quả, tích cực đổi mới, sáng tạo với phương châm “Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả”. Tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, nhưng cũng không hoang mang, dao động; luôn bình tĩnh, tự tin, bản lĩnh, chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, không chuyển trạng thái đột ngột, điều hành “giật cục”. Đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, chung sức, đồng lòng quyết tâm hành động cao nhất theo tinh thần “Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” để tạo nên sức mạnh tổng hợp, sự đồng tâm nhất trí của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; thích ứng linh hoạt, hiệu quả với bối cảnh, tình hình để “biến nguy thành cơ”, kiên quyết khắc phục khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ, thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, thực chất, hiệu quả và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cũng được yêu cầu chủ động theo dõi sát diễn biến trong nước, quốc tế, nâng cao năng lực, tăng cường phân tích, đánh giá, dự báo để có giải pháp kịp thời, tổng thể, đồng bộ, tận dụng thời cơ, thuận lợi, giảm thiểu tác động tiêu cực đối với nền kinh tế và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người dân; tăng cường chuyển đổi số, thực hiện công tác thống kê, báo cáo kịp thời, chính xác; định kỳ hằng quý cập nhật kịch bản phát triển ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý...
Giải pháp sát thực, phù hợp
Trên cơ sở nhận thức chung đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, trong năm 2023, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với Quốc hội; bám sát thực tiễn, lắng nghe ý kiến phản ánh, góp ý của các địa phương, nhân dân, các tổ chức, chuyên gia tư vấn, nhà khoa học, doanh nghiệp, các địa phương và tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực.
Trong đó, đã kịp thời chỉ đạo các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; bảo đảm an ninh lương thực gắn với xuất khẩu gạo bền vững, hiệu quả; bảo đảm nguồn cung xăng, dầu đáp ứng nhu cầu thị trường; điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp; xây dựng phương án về thuế tối thiểu toàn cầu; phòng ngừa, ngăn chặn “tín dụng đen”; ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai...
Bên cạnh đó, tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác nhằm ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Cụ thể là đã chỉ đạo giảm liên tiếp 4 lần lãi suất điều hành với tổng mức giảm 0,5 - 2,0%; đưa ra các gói chính sách hỗ trợ tín dụng 120.000 tỷ đồng cho nhà ở xã hội, 15.000 tỷ đồng cho lâm sản, thủy sản; thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất khoảng 200.000 tỷ đồng...
Chính phủ cũng thường xuyên chỉ đạo rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách; đồng thời, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính; thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân. 26 Tổ công tác của Thành viên Chính phủ, Thường trực Chính phủ đã trực tiếp làm việc với các địa phương để nắm bắt tình hình thực tiễn, tháo gỡ, khó khăn, vướng mắc và hướng dẫn, động viên, khích lệ kịp thời. Tổ chức nhiều hội nghị, diễn đàn, cuộc họp tham vấn ý kiến về các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng...; tham vấn chính sách các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp bằng các hình thức linh hoạt, phù hợp phục vụ công tác chỉ đạo điều hành.
Cùng với đó, tập trung chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xanh, bền vững; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh... Tăng cường khảo sát, nắm bắt thực tiễn, kiểm tra, đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công ở các địa phương, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là cho các dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm. Tập trung chỉ đạo xử lý các ngân hàng yếu kém; đưa vào vận hành một số dự án năng lượng sau nhiều năm gián đoạn, góp phần giảm lãng phí nguồn lực; kịp thời chỉ đạo tháo gỡ những vấn đề phức tạp phát sinh như trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản, cung ứng năng lượng, vật tư, thuốc chữa bệnh, in sách giáo khoa...
Bám sát tình hình, quan tâm chỉ đạo kịp thời, thực hiện tốt các chính sách phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu; thực hiện nghiêm các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để thúc đẩy hợp tác phát triển...
III. VỮNG VÀNG VƯỢT QUA KHÓ KHĂN
Kết quả toàn diện
Theo Báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa XV, năm 2023, chúng ta đã cơ bản bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát được kiểm soát; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; tăng trưởng kinh tế phục hồi.
Cụ thể, tăng trưởng GDP quý I đạt 3,32%, quý II tăng 4,14%, quý III tăng 5,33%, ước cả năm đạt trên 5%. Mặc dù đây là mức tăng thấp hơn chỉ tiêu đề ra là khoảng 6,5%, nhưng là mức khá cao so với nhiều nước trong khu vực, thế giới. Với quy mô GDP ước đạt khoảng 435 tỷ USD, Việt Nam được xếp vào nhóm 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới. Điểm đáng ghi nhận là trong năm qua khu vực nông nghiệp phát triển ổn định, tăng 3,38%, tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế trong khó khăn; khu vực dịch vụ phát triển khá sôi động, tăng 6,3% so với cùng kỳ; khu vực công nghiệp và xây dựng từng bước phục hồi, trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã đạt mức tăng 5,61% vào quý III.
Tính chung 11 tháng năm 2023, khách quốc tế đến nước ta đạt hơn 11,2 triệu lượt người, gấp 3,8 lần cùng kỳ năm trước. |
Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ, ngoại hối trong năm 2023 cũng được đánh giá là cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất giảm. Tiêu dùng tăng trưởng tích cực. Đặc biệt, mặc dù trong năm 2023 việc miễn, giảm, gia hạn nhiều loại thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất làm giảm thu khoảng 75.000 tỷ đồng nhưng thu ngân sách nhà nước cả năm vẫn đạt vượt dự toán được giao. Bội chi ngân sách nhà nước và các chỉ tiêu về nợ công được kiểm soát thấp hơn giới hạn và ngưỡng cảnh báo theo Nghị quyết của Quốc hội. Việc cơ cấu lại nền kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ; tích cực thúc đẩy chuyển đổi số...
Tại báo cáo tháng 10-2023, IMF dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của toàn thế giới là 3%; của các nước đang phát triển và mới nổi là 4%; của Thái Lan là 2,7%, Singapore là 1%, Trung Quốc là 5%, Mỹ là 2,1%, EU là 0,7%, Nhật Bản là 2%, Hàn Quốc là 1,4%... |
Với kết quả đạt được, nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế nước ta; đồng thời dự báo Việt Nam sẽ phục hồi nhanh trong thời gian tới. Trong đó, Moodys xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam ở mức Ba2, triển vọng “Ổn định”; S&P xếp hạng ở mức BB+, triển vọng “Ổn định”; Fitch xếp hạng ở mức BB, triển vọng “Tích cực”...
“Suy thoái toàn cầu là cú sốc lớn đối với nền kinh tế mở của Việt Nam. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng mà nhiều quốc gia trên thế giới kỳ vọng. Điều quan trọng là Việt Nam tiếp tục củng cố môi trường kinh doanh, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư tư nhân để tận dụng tối đa tác động của những diễn biến địa chính trị toàn cầu đối với đầu tư và thương mại quốc tế”. Ông Andrea Coppola - Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam |
Chúng tôi đánh giá cao Chính phủ trong việc chỉ đạo thực hiện các chính sách tiền tệ và tài khóa một cách cân bằng và hiệu quả nhằm đẩy nhanh quá trình phục hồi, đồng thời tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế đã được tăng cường trước những thách thức toàn cầu”. Ông Shantanu Chakraborty - Giám đốc quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam |
Nhiều điểm sáng
Cùng với những thành tựu trên, trong từng lĩnh vực, năm 2023 nền kinh tế Việt Nam cũng có nhiều diễn biến tích cực khác. Cụ thể là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vẫn ổn định ở mức 3,5% vào tháng 11 so với 3,6% vào tháng 10, thấp hơn nhiều so với mục tiêu Quốc hội đặt ra cho năm 2023 là 4,5%. Lạm phát cơ bản tiếp tục giảm tốc, đứng ở mức 3,2% so cùng kỳ vào tháng 11-2023, so với 3,4% vào tháng 10, do ảnh hưởng của cú sốc giá dầu tiếp tục giảm dần.
Đáng chú ý là mặc dù gặp nhiều khó khăn về thị trường, nhưng trong năm qua tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước ước đạt 683 tỷ USD, đưa nước ta vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 354,5 tỷ USD với cơ cấu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Nhập khẩu 328,5 tỷ USD, cơ bản đáp ứng nhu cầu nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng, trong đó nhập khẩu nhóm hàng phục vụ sản xuất để xuất khẩu và hàng hóa thiết yếu tăng và chiếm tỷ trọng lớn (88,5% tổng kim ngạch). Với kết quả này, cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp với mức thặng dư ước đạt 26 tỷ USD, tăng xấp xỉ 3 lần năm 2022, góp phần nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá. Trong 11 tháng, đã có tới 33 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó 7 mặt hàng đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD.
Một trong những “điểm nhấn” trong năm 2023 là vốn đầu tư toàn xã hội ước tăng 6,8% so với năm 2022. Trong đó, trong 11 tháng năm 2023, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước ước đạt 549.100 tỷ đồng, bằng 75% kế hoạch năm và tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2022. Đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng tập trung có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, kém hiệu quả; nhiều công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia được tập trung đẩy nhanh tiến độ, trong đó đã hoàn thành, đưa vào sử dụng thêm hơn 700km đường bộ cao tốc. Việt Nam tiếp tục được đánh giá là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế, với lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài ước đạt 30 tỷ USD, tăng cao so với năm 2022; vốn FDI thực hiện đạt khoảng 22 tỷ USD.
“Bất chấp những thách thức từ môi trường bên ngoài, Việt Nam đã khéo léo điều hướng các chính sách giảm nhẹ như chính sách tiền tệ và tài chính, đầu tư công và tăng cường mạng lưới an sinh xã hội để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm sự cân bằng giữa ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và việc làm. Chúng tôi đánh giá cao Chính phủ trong việc chỉ đạo thực hiện các chính sách tiền tệ và tài khóa một cách cân bằng và hiệu quả nhằm đẩy nhanh quá trình phục hồi, đồng thời tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế đã được tăng cường trước những thách thức toàn cầu”. Ông Shantanu Chakraborty - Giám đốc quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam |
IV. NỖ LỰC BẢO ĐẢM AN SINH, HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Bảo đảm an sinh
Cùng với việc chú trọng phát triển kinh tế, năm 2023, công tác bảo đảm an sinh xã hội, lao động, việc làm, cải thiện đời sống người dân cũng được đặc biệt quan tâm và có những chuyển biến tích cực. Cụ thể, chính sách người có công đã được thực hiện đầy đủ, kịp thời qua việc trợ cấp thường xuyên cho trên 1,13 triệu người có công với kinh phí 29.000 tỷ đồng/năm...
Công tác tổ chức thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia đã đạt được một số kết quả nhất định, bám sát mục tiêu, nguyên tắc, nhiệm vụ, yêu cầu đổi mới về cơ chế, chính sách quản lý. Trong đó, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tập trung hỗ trợ người nghèo, người dân sinh sống ở vùng nghèo, vùng khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, có việc làm, sinh kế bền vững; đồng thời hỗ trợ các địa bàn thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Người nghèo đã được cải thiện điều kiện sống, tiếp cận tốt hơn các chính sách cũng như nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng để phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập; một số nhu cầu xã hội thiết yếu của người nghèo như: việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh, tiếp cận thông tin,... cơ bản được đáp ứng. Đến hết năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều còn khoảng 2,93%; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 33%; tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khoảng 17,82% (đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao); cả nước có 10/54 xã thoát khỏi xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. Với kết quả này, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về giảm nghèo và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDGs).
Trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tính đến hết tháng 8-2023, cả nước có 6.031/8.167 xã (73,85%) đạt chuẩn nông thôn mới; trong đó, 1.521 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 225 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (tăng 55 xã); 264 đơn vị cấp huyện thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới...
Năm qua, lĩnh vực lao động, việc làm cũng có những chuyển biến tích cực. Các hoạt động kết nối cung - cầu lao động được tăng cường, giúp các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm cơ bản duy trì được lực lượng lao động ổn định, không để gián đoạn, đứt gãy chuỗi cung ứng; kịp thời hỗ trợ người lao động bị mất việc, giảm giờ làm; thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, tiền lương cho người lao động; trong 11 tháng đã đưa trên 146.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài (vượt mục tiêu 110.000 người của năm 2023); tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị ước cả năm là 2,76% (chỉ tiêu Quốc hội giao là dưới 4%). Công tác cứu trợ khẩn cấp triển khai có hiệu quả với nhiều chính sách đi trước, đi sớm và hiệu quả...
Nhìn tổng thể, hệ thống an sinh xã hội ở nước ta với diện bao phủ ngày một mở rộng, trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân của người lao động tăng 6,8%; trên 94% số hộ gia đình đánh giá có thu nhập ổn định hoặc cao hơn cùng kỳ năm 2022. Theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới công bố tháng 3-2023 của Liên hợp quốc, Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 12 bậc, từ vị trí 77 lên vị trí 65 trong bảng xếp hạng toàn cầu.
Đổi mới, sáng tạo để phát triển
Xác định khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là những động lực quan trọng trong thực hiện chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, trong năm qua, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, hướng đến trở thành một hệ sinh thái năng động trong khu vực.
Về mặt chính sách, cùng với việc ban hành Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030, chúng ta đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi về đổi mới sáng tạo; phát triển Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam; hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển mạnh qua việc tập trung xây dựng, hoàn thiện 3 Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng; hàng chục chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia được triển khai theo định hướng phát triển các hướng nghiên cứu cơ bản, công nghệ ưu tiên, các sản phẩm trọng điểm, chủ lực của đất nước.
Các hoạt động kết nối cung - cầu công nghệ tiếp tục được triển khai hiệu quả; cơ sở dữ liệu về công nghệ liên tục được cập nhật. Theo Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu 2023, Việt Nam là 1 trong 3 quốc gia có kết quả đổi mới sáng tạo vượt trội hơn so với mức độ phát triển trong 13 năm liên tiếp. Hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đã tăng từ vị trí thứ 5 lên vị trí thứ 3 trong số 6 nền kinh tế hàng đầu Đông Nam Á.
Cùng với việc thực hiện quyết liệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước với trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính qua cắt giảm, đơn giản hóa, phân cấp giải quyết thủ tục hành chính, năm 2023, công cuộc chuyển đổi số quốc gia và phát triển dữ liệu số đạt được nhiều kết quả tích cực như trong kết nối chia sẻ dữ liệu; khai thác dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; phát triển hạ tầng dữ liệu số; số hóa dữ liệu...
Tính đến tháng 10, Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) hoạt động hiệu quả, năng lực phục vụ được tăng cường với khoảng 1,6 triệu giao dịch mỗi ngày; cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư tiếp nhận gần 1,2 tỷ yêu cầu tra cứu, xác thực thông tin; cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm đã xác thực thông tin trên 91 triệu nhân khẩu với cơ sở dữ liệu về dân cư; cơ sở dữ liệu về hộ tịch điện tử đã có trên 45 triệu dữ liệu đăng ký khai sinh, trong đó có trên 9,2 triệu trẻ em được cấp số định danh cá nhân; cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức đã kết nối, đồng bộ dữ liệu với 100% các bộ, ngành, địa phương; đồng bộ trên 2,1 triệu dữ liệu cán bộ, công chức, viên chức, đạt tỷ lệ 95%...
Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước kết nối 4 cấp hành chính tiếp tục được phát triển, tạo hạ tầng truyền dẫn ổn định, an toàn kết nối các hệ thống thông tin phục vụ Chính phủ số. Đến nay, Mạng đã kết nối đến 100% số huyện, 100% số xã trên toàn quốc. Những bước tiến này tạo nhiều thuận lợi, nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành từ Trung ương tới có sở; đồng thời tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc thực hiện các dịch vụ công...
V. TIẾP TỤC CHO NHỮNG BƯỚC TIẾN MỚI
Những mục tiêu phù hợp
Trên cơ sở những đánh giá khách quan, khoa học, sát thực tiễn, Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ sáu xác định rõ các mục tiêu tổng quát. Đó là tiếp tục ưu tiên tăng trưởng gắn với củng cố, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Đẩy mạnh, tạo chuyển biến tích cực hơn trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế.
Tập trung tháo gỡ các “điểm nghẽn” về thể chế, chính sách; khơi thông các nguồn lực; xử lý hiệu quả các vướng mắc để phát triển các loại thị trường ổn định, an toàn, lành mạnh, bền vững; nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, thực thi công vụ. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng chiến lược trọng điểm, quan trọng quốc gia. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tăng cường thu hút đầu tư toàn xã hội, hợp tác công - tư; có cơ chế, chính sách đặc thù tạo đột phá trong thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, nhất là trong các ngành, lĩnh vực mới nổi, bảo đảm kết nối với khu vực kinh tế trong nước, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng.
Quan tâm phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế ngang tầm với phát triển kinh tế; chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Chăm lo các đối tượng chính sách. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tư pháp, quyết liệt phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế; làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội; gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước.
Những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
Để đạt được những mục tiêu trên, Nghị quyết của Quốc hội cũng đề nghị Chính phủ và các cơ quan liên quan tập trung thực hiện tốt 12 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Trong đó, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác, nỗ lực giải quyết các điểm nghẽn, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu), bám sát định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Tăng cường năng lực phân tích dự báo, nắm chắc tình hình, có phản ứng chính sách kịp thời, phù hợp, hiệu quả với các vấn đề mới phát sinh...
Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương, đường lối, nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Đảng. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách đáp ứng yêu cầu thực tiễn và những vấn đề mới phát sinh gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật; bảo đảm tiến độ và chất lượng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024. Đẩy mạnh việc ban hành các văn bản hướng dẫn và thực hiện các cơ chế, chính sách đặc thù đã được Quốc hội thông qua. Tiếp tục tích cực rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật, tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để phục hồi và phát triển ổn định, lành mạnh, bền vững các loại thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị trong công tác xây dựng, ban hành, rà soát, kiểm tra và thực thi văn bản quy phạm pháp luật. Tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy định kinh doanh nhằm tạo thuận lợi, tiết giảm chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp...
Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là hệ thống đường cao tốc, nâng cấp các sân bay, bến cảng, hạ tầng đô thị, hạ tầng liên vùng.
Tập trung thực hiện hiệu quả, thực chất cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực và trong nội ngành gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Tập trung phục hồi, phát triển các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất chip bán dẫn, để trở thành một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục cơ cấu lại các khu vực nông nghiệp, dịch vụ, nhất là những ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, giá trị gia tăng cao gắn với phát triển thị trường, bảo đảm chất lượng sản phẩm, dịch vụ, xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam...
Tiếp tục cơ cấu lại đầu tư công, nhất là vốn vay nước ngoài, bảo đảm thực chất, hiệu quả; tập trung vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia, không để tình trạng dàn trải, manh mún, chia cắt, lãng phí, kém hiệu quả. Triển khai quyết liệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025. Nâng cao hiệu quả hoạt động gắn với cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước; quyết liệt chỉ đạo, xử lý từng bước dứt điểm các vấn đề tồn đọng kéo dài...
Tiếp tục thực hiện hiệu quả chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, nhất là tại địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Khẩn trương ban hành Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thực hiện các giải pháp đột phá phát triển và đổi mới giáo dục nghề nghiệp; ưu tiên bố trí nguồn lực cho đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với những ngành, lĩnh vực mới nổi. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách đột phá thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp, chuyển đổi số quốc gia...
Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, bảo đảm gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Trong đó, thực hiện hiệu quả các giải pháp bảo đảm mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững theo hướng tích hợp chính sách thuộc các lĩnh vực khác nhau để không bị chồng chéo, trùng lặp, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả, gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính.
Tăng cường, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; khai thác hiệu quả cơ hội từ các quan hệ đối tác, hiệp định thương mại tự do; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực để phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam.
Tập trung thông tin tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các sự kiện lớn của đất nước. Tuyên truyền về khát vọng phát triển quốc gia, cổ vũ mô hình hay, cách làm sáng tạo, gương người tốt, việc tốt. Thực hiện tốt tuyến thông tin bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết đấu tranh chống các hành vi sai trái, phản bác các quan điểm, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp và người dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.../.
Khôi Nguyên - Tiến Thắng - Công Minh - Thành Nam - Duy Anh (thực hiện)
Các bài cũ hơn



