03/06/2025 | 23:21 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Đại đoàn kết toàn dân tộc: Điểm tựa để Việt Nam hội nhập và phát triển

Lê Văn Phong
TS, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Đại đoàn kết toàn dân tộc: Điểm tựa để Việt Nam hội nhập và phát triển Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ thăm và tặng quà gia đình chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, công nhân, người lao động tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai nhân
Đại đoàn kết toàn dân tộc là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc đã hun đúc nên con người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, sống thủy chung, nhân ái và sự cố kết cộng đồng sâu sắc. Nhờ đó, nhân dân Việt Nam đã lập nên những kỳ tích trong quá trình chống giặc ngoại xâm và đạt nhiều thành tựu trong sự nghiệp dựng xây đất nước, để “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” . Đó cũng chính là điểm tựa vững vàng để Việt Nam hội nhập và phát triển.

Đại đoàn kết toàn dân tộc - một truyền thống quý báu

Lần giở lại những trang vàng của lịch sử dân tộc Việt Nam, trong các giá trị văn hóa truyền thống, nổi lên vị trí hàng đầu và mang tính bền vững nhất là tinh thần yêu nước; ý thức tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; truyền thống đại đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Trong những giá trị ấy, có thể nói, đại đoàn kết toàn dân tộc là giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam. 

Đồng thời, đó còn là cội nguồn của sức mạnh, tạo nên sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Từ xa xưa, người Việt Nam tiến hành công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong điều kiện thiên nhiên thuận lợi, nhưng cũng rất khắc nghiệt, gần như thường xuyên phải chống lại thiên tai. 

Chính thử thách ấy đã tạo nên truyền thống lao động cần cù và kiên nhẫn, thông minh và sáng tạo, đoàn kết và yêu thương, “lá lành đùm lá rách”.

Một đặc điểm nổi bật trong lịch sử dân tộc trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước đó là nước ta phải chống giặc ngoại xâm liên tiếp. Trong hành trình dặm dài ấy, dân tộc ta đã hình thành nên truyền thống tốt đẹp, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1]

Sự đúc kết đó mang nhiều ý nghĩa, trong đó nổi lên 2 nội dung. Một là, chủ nghĩa yêu nước của người Việt Nam rất sâu sắc, nó được nuôi dưỡng qua hàng nghìn năm lịch sử, có nền tảng vững chắc, trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc. Hai là, chủ nghĩa yêu nước đó được thể hiện cao nhất, rõ nhất khi nước nhà đứng trước họa xâm lăng. 

Trước nguy cơ mất còn của đất nước, người Việt Nam đã biết đặt lợi ích cao nhất của dân tộc lên trên hết, trước hết, kết thành một khối vững chắc, tạo sức mạnh vô song đánh thắng kẻ thù. 

Đó là lẽ sinh tồn của người Việt Nam qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử và được biểu hiện rõ trong thời đại Hồ Chí Minh. Từ truyền thống và thực tiễn lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” và kêu gọi: “Hỡi ai con cháu Rồng Tiên/ Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau”.

Qua thực tế cách mạng, tính đúng đắn trong tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức thuyết phục, trở thành tư tưởng của toàn Đảng, được phát huy cao độ trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. 

Đánh giá về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Bọn đế quốc... không bao giờ đánh giá được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục được tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ địch”[2]

Tiếp đó, trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với tinh thần “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”, toàn thể dân tộc Việt Nam đã kết thành một khối vững chắc, đặc biệt hơn nữa là, thực hiện Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 17-7-1966) với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân dân miền Bắc đã kết thành một khối, đẩy mạnh các phong trào thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. 

Đặc biệt, các phong trào, như “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng” và các khẩu hiệu hành động: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Lớp cha trước, lớp con sau, đã thành đồng chí chung câu quân hành”... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua, vừa lao động sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ; bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc, đồng thời liên tục chi viện ngày càng cao sức người, sức của cho chiến trường miền Nam và các chiến trường khác.

Trong khi đó, tại miền Nam, quân dân các địa phương đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và binh vận trên khắp 3 vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng và đô thị. Đặc biệt, ngay giữa vòng vây của địch, nhân dân các giới, các tôn giáo đã đoàn kết, sáng tạo, xây dựng nhiều phương thức đấu tranh, hình thành nhiều phong trào đấu tranh để tạo dựng thế trận chiến tranh nhân dân..., qua đó đánh thắng từng bước các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Về vấn đề này, Đại tướng Văn Tiến Dũng khẳng định với các nhà báo và học giả phương Tây rằng: “một lần nữa tôi muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình...”[3].

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời kỳ đổi mới, chúng ta vượt qua được giai đoạn khó khăn, gian khổ khi xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, bước sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những năm trước đổi mới (trước năm 1986), tốc độ tăng trưởng kinh tế hầu như không đáng kể, có năm kinh tế tăng trưởng âm. 

Những năm đầu đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế có sự tăng khá, lúc đầu khoảng 2%, sau đó lên 4,5% và đạt 6% vào năm 1991. Đặc biệt, vào năm 1995, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế lên đến 9,5% và năm 1996 ở mức 9,34%. Năm 1999, tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ là 4,77%, đến 2009 là 5,32%, 10 năm sau vào năm 2019 là 7,02%. 

Thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt”[4]

Để đạt được những thành tựu đó, việc quy tụ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự đồng lòng, chung sức của cả dân tộc có ý nghĩa hàng đầu, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Điểm tựa vững vàng để Việt Nam hội nhập và phát triển

Những năm tới, dự báo tình hình quốc tế, khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Ở trong nước, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, Việt Nam còn đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Để vững vàng hội nhập và phát triển, ngoài việc tranh thủ thời cơ, vượt qua nguy cơ, thách thức, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là đặc biệt quan trọng. 

Trước tiên, cần quán triệt sâu sắc mọi chủ trương, đường lối của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là vấn đề mang tính nguyên tắc; đặc biệt là phải quán triệt, vận dụng sáng tạo những quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Trước những bước ngoặt lớn của lịch sử với mục tiêu lớn lao của đất nước, nếu biết khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thì con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, phong ba bão táp, để cập bến bờ vinh quang”[5]

Tổng Bí thư khẳng định: “Nhân tố quyết định sức mạnh của dân tộc ta là tính cố kết cộng đồng, là “tình đồng chí, nghĩa đồng bào”, là tinh thần đại đoàn kết, hòa bình, hữu nghị, với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và mong muốn xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc”[6]

Bên cạnh đó, cần quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, với mục tiêu: “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[7]

Đây là những chủ trương, đường lối quan trọng và là điểm tựa vững vàng để Việt Nam hội nhập và phát triển.

Điểm cần nhấn mạnh là trong quá trình hội nhập và phát triển, Việt Nam phải luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. 

Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế... 

Trong tiến trình đó, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu. Đó không chỉ là đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc ở trong nước và còn tăng cường đoàn kết với người Việt Nam ở nước ngoài, tranh thủ tinh thần yêu nước, sự hướng về Tổ quốc của họ để chung tay xây dựng đất nước mạnh giàu. Đồng bào ta ở nước ngoài hướng về quê hương là nguồn lực quan trọng đóng góp cho quá trình phát triển đất nước.

*

Bài học từ thực tiễn lịch sử cho thấy, khi nào sức mạnh của khối đại đoàn kết, sức mạnh của lòng dân được phát huy, khi đó đất nước ổn định, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; và ngược lại, khi nào lòng dân ly tán, khối đại đoàn kết bị chia rẽ, xã hội lâm vào tình cảnh rối ren, đời sống nhân dân lầm than, cực khổ. 

Do vậy, chỉ có đoàn kết mới có sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn. Chỉ có đoàn kết và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam mới hội nhập và phát triển thành công. 

Nói cách khác, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là điểm tựa vững vàng để Việt Nam phấn đấu vươn lên giành những thành tựu mới, xây dựng xã hội phồn vinh, hạnh phúc, trước mắt là thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng./.

______________

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 171.

[7] Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, lưu tại Văn phòng Trung ương Đảng.