21/11/2024 | 17:06 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Tư duy đột phá của tỉnh Quảng Ninh trong phát triển kinh tế biển theo tinh thần Nghị quyết đại hội XIII của Đảng

TS. Lê Văn Phong* - TS. Nguyễn Thị Thanh Hoa**
*Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - **Trường Đại học Hải Dương
Tư duy đột phá của tỉnh Quảng Ninh trong phát triển kinh tế biển theo tinh thần Nghị quyết đại hội XIII của Đảng

Quảng Ninh là mảnh đất “địa linh, nhân kiệt”, có Vịnh Hạ Long - một kỳ quan thiên nhiên thế giới; là cửa ngõ, phên giậu của Tổ quốc ở phía Đông Bắc. Bên cạnh đó, Quảng Ninh là nơi có thương cảng Vân Đồn, một trong những thương cảng sầm uất nhất Việt Nam trong nhiều thế kỷ, đã khẳng định Việt Nam từ sớm là một quốc gia biển, vươn ra biển, phát triển kinh tế biển. Nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của kinh tế biển, những năm qua, đặc biệt là thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, với tinh thần đổi mới, sáng tạo và tư duy đột phá, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế biển, qua đó đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần đưa Quảng Ninh trở thành một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế biển.

Thực tiễn phát triển kinh tế biển của tỉnh Quảng Ninh

Những năm qua, thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9-2-2007, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, với tư duy đột phá, tỉnh Quảng Ninh đề xuất với Trung ương áp dụng nhiều cơ chế đột phá để thu hút các nguồn lực đầu tư cho hạ tầng. Các công trình được đầu tư là những công trình thiết yếu và cấp bách phục vụ đời sống dân sinh trên đảo và vùng ven biển như đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Hải Phòng - Hạ Long, Hạ Long - Vân Đồn, sân bay quốc tế Vân Đồn. Bên cạnh đó, Quảng Ninh cũng là địa phương đầu tiên đưa điện lưới ra huyện đảo, sử dụng công nghệ cáp ngầm 22kV xuyên biển. Các dự án đưa điện lưới ra huyện đảo Cô Tô, đảo Cái Chiên và 5 xã đảo huyện Vân Đồn không chỉ là sự kiện quan trọng của tỉnh, của nhân dân huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn, Hải Hà mà còn là sự kiện của cả nước, thể hiện sự quan tâm chăm lo cho đồng bào các xã đảo, góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng khu vực biên giới, hải đảo của Tổ quốc.

Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế biển đối với sự phát triển của đất nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, nêu rõ: “Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển; là cửa ngõ, động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gắn với cảng quốc tế Lạch Huyện; phát triển Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới”[1].

Quán triệt chủ trưởng của Đảng, với sự tích cực, chủ động, đặc biệt là với tinh thần đổi mới, dám nghĩ, dám làm và với tư duy đột phá, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã họp bàn, ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, chương trình hành động nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế biển, nổi bật là Chương trình hành động số 27-CTr/TU ngày 27-3-2019, thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 15-NQ/TU, ngày 23-4-2019, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu hướng đến là xây dựng Quảng Ninh phát triển trở thành một trong các trung tâm kinh tế biển mạnh của cả nước, là cửa ngõ, động lực phát triển Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với hệ thống cảng biển nước sâu; trọng tâm là các địa phương như Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái, Quảng Yên, Vân Đồn, Cô Tô, Hải Hà gắn với các ngành kinh tế biển; trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới thông qua đường biển.

Ngay sau khi Chương trình hành động số 27-CTr/TU, Nghị quyết số 15-NQ/TU được ban hành, các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở nghiêm túc lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tuyên truyền triển khai thực hiện. Cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy các địa phương, cơ quan, đơn vị quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành các văn bản tuyên truyền, quán triệt đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân để tạo sự đồng thuận. Các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện sát với thực tiễn, trong đó tập trung cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển; xây dựng lộ trình hoàn thành; thực hiện kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra trong Chương trình hành động số 27-CTr/TU và trong Nghị quyết số 15-NQ/TU gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.

Xác định hoàn thiện hạ tầng là một trong những yêu cầu cấp thiết mở ra cơ hội mới trong phát triển kinh tế cảng biển và dịch vụ cảng biển, thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU, Quảng Ninh dành nguồn vốn ngân sách để phát triển hạ tầng cảng biển, dịch vụ cảng biển và hạ tầng giao thông; đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, mở rộng hợp tác với nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước nghiên cứu, đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống cảng biển. Các địa phương rà soát, đề xuất xây dựng quy hoạch hệ thống cảng biển gắn với hệ thống giao thông kết nối các khu công nghiệp, khu kinh tế, các vùng sản xuất lớn và những khu vực có tiềm năng về phát triển cảng biển, dịch vụ cảng biển, du lịch. Điển hình, thành phố Hạ Long rà soát lại các dự án, quy hoạch bên bờ Vịnh Cửa Lục, với mục tiêu định hướng lại các khu vực cần đầu tư, làm cơ sở hình thành các bến du thuyền tiêu chuẩn. Trong đó xác định không phát triển mở rộng bến cảng xăng dầu B12, phối hợp xây dựng kế hoạch di dời phù hợp với quy hoạch; giữ nguyên quy mô hiện trạng bến cảng của các nhà máy xi măng, nhiệt điện, nghiên cứu di dời hoặc chuyển đổi công năng cùng với lộ trình di dời các nhà máy xi măng, nhiệt điện tại khu vực; cải tạo, nâng cấp, xây mới đồng bộ hạ tầng bến cảng tại khu bến Cái Lân. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình, nhất là những công trình kết nối giữa các khu vực của thành phố như: Cải tạo, chỉnh trang, mở rộng đường kết nối từ cầu Cửa Lục 1 đến ngã ba Kênh Đồng (phường Giếng Đáy); tuyến đường Đồng Cao - Đò Bang (xã Thống Nhất); đường đấu nối QL279 đến tỉnh lộ 342... Cùng với tập trung cho đầu tư hạ tầng cảng biển, dịch vụ cảng biển và hạ tầng giao thông chiến lược, quy hoạch hệ thống cảng biển Quảng Ninh sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã được điều chỉnh, bổ sung vào quy hoạch các khu công nghiệp, khu kinh tế và cập nhật vào quy hoạch xây dựng, quy hoạch tỉnh nhằm xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong giai đoạn 2021-2030; xác định quỹ đất dành cho phát triển dịch vụ kho bãi, khu hậu cần logistics. Nhiều ngành kinh tế biển và ven biển trở thành động lực tăng trưởng. Trong đó ngành du lịch và dịch vụ biển vượt qua khó khăn trong dịch bệnh, tiếp tục phát triển, khẳng định thương hiệu, vị thế của Quảng Ninh, một trong những trung tâm du lịch lớn của cả nước. Không gian du lịch biển tiếp tục được mở rộng và phát triển. Kết cấu hạ tầng tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Nhiều sản phẩm, loại hình du lịch chất lượng, đặc sắc, đa dạng có giá trị gia tăng cao đã ra đời.

Tựu trung, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, bằng sự chủ động, tích cực và tư duy đột phá, phát triển kinh tế biển của tỉnh Quảng Ninh thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực và đóng góp quyết định cho tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quảng Ninh tiếp tục kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng của các hoạt động du lịch và dịch vụ; khai thác hiệu quả lợi thế kinh tế biên mậu và kinh tế cảng biển; xây dựng khu kinh tế ven biển gắn liền với bảo vệ môi trường, quốc phòng - an ninh. Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng công tác quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết các khu, điểm du lịch, khu vui chơi giải trí, cơ sở dịch vụ du lịch, mời gọi các doanh nghiệp đầu tư vào các khu du lịch biển đảo. Ngành du lịch của tỉnh có bước tiến quan trọng, diện mạo được thay đổi nhanh chóng. Tỉnh tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng ven biển, thúc đẩy phát triển kinh tế biển của tỉnh; ưu tiên nguồn vốn vay cho đóng tàu đánh bắt xa bờ. Quảng Ninh đã mở rộng phát triển và hình thành các sản phẩm du lịch mới ra các tuyến đảo như Vân Đồn, Cô Tô, Vịnh Bái Tử Long, Cái Chiên. Trong đó, tỉnh ưu tiên xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch và dịch vụ biển cao cấp, độc đáo, chất lượng cao có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Kết quả đó phản ánh tư duy đột phá của tỉnh trong phát triển kinh tế biển thời kỳ mới.

Dấu ấn phát triển kinh tế biển của tỉnh Quảng Ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển... Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả các ngành kinh tế biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp và các đô thị ven biển. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển, nhất là nhân lực chất lượng cao”[2]. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã chủ động, tích cực, phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đột phá trong phát triển kinh tế biển bằng sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ thông qua các chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch và chương trình hành động cụ thể, nổi bật là, ngày 18-1-2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Kế hoạch số 16/KH-UBND phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2030, tỉnh Quảng Ninh trở thành một trong các tỉnh dẫn đầu về kinh tế biển của cả nước, trở thành trung tâm kinh tế biển, là cửa ngõ, động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 của cả nước; đạt các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, bảo tồn các hệ sinh thái quan trọng, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Ứng dụng thành tựu khoa học mới, tiên tiến hội nhập và lợi thế cạnh tranh để phát triển kinh tế biển và kinh tế vùng ven biển gắn liền mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung của tỉnh, khu vực, đất nước; cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân vùng ven biển; bảo đảm an toàn đời sống dân cư và các thành phần kinh tế hoạt động trên biển, ven biển, các đảo của tỉnh[3].

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tầm nhìn và định hướng chiến lược về phát triển kinh tế biển của Quảng Ninh trong Kế hoạch số 16/KH-UBND phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 là toàn diện, đúng định hướng và mang tầm chiến lược. Điều đó giúp Quảng Ninh từng bước trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh, nòng cốt là các hoạt động cảng biển, du lịch và khu công nghiệp ven biển, phát triển các khu đô thị, thương mại gắn với vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ, ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển; bảo tồn và phát huy các giá trị di sản, tài nguyên biển; nâng cao nhận thức nhân dân về vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Tuy nhiên, điều cần thấy rõ là, cùng với Nghị quyết Đại hội XIII đã chỉ rõ, trong các chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước, tỉnh Quảng Ninh được xác định là trung tâm kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng đồng bằng sông Hồng, là trung tâm kinh tế mạnh trong Chiến lược biển Việt Nam và trong chiến lược “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” Việt - Trung, trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, nằm trong khu vực trung chuyển giao lưu hàng hóa, khoa học công nghệ lớn giữa Đông Bắc Á - Đông Nam Á. Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 11-2-2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 nhấn mạnh, đối với kinh tế biển: Xây dựng, phát triển Quảng Ninh trở thành một trung tâm kinh tế biển bền vững của cả nước trên cơ sở phát triển du lịch - dịch vụ kết nối khu vực và quốc tế; đầu tư xây dựng hệ thống cảng biển nước sâu, các âu tàu du lịch đẳng cấp quốc tế gắn với phát triển kinh tế chuỗi khu kinh tế, khu đô thị biển - ven biển cận kề và là một trong những trung tâm logistics trọng điểm của cả nước. Đồng thời xây dựng Quảng Ninh thành một trong những cửa ngõ trung chuyển hướng biển của khu vực; tăng khả năng liên kết không gian kinh tế ven bờ, biển và đảo, tạo động lực phát triển cho vùng Đông Bắc và cả nước. Phát triển khai thác và nuôi trồng thủy sản ven biển và trên biển (nuôi biển) công nghệ cao, hiệu quả và bền vững; khuyến khích nuôi các đối tượng làm dược liệu biển và thực phẩm dinh dưỡng từ sản phẩm biển; ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong chế biến sâu, bảo quản sau thu hoạch,... để tạo giá trị gia tăng của sản phẩm biển, góp phần tiết kiệm tài nguyên biển. Quy hoạch không gian ven biển, ven bờ (ven đảo lớn) cho phát triển du lịch bền vững kết hợp phát triển các lĩnh vực kinh tế - dịch vụ dựa vào bảo tồn biển là thế mạnh vượt trội ở Quảng Ninh. Ưu tiên xây dựng đồng bộ và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng đa mục tiêu, nhằm bảo đảm “lợi ích kép” trong phát triển. Chuyển dần sang phát triển mạnh năng lượng tái tạo. Coi trọng hợp tác quốc tế và khu vực trong phát triển kinh tế biển bền vững và đào tạo nguồn nhân lực biển hiệu quả. Tổ chức lại không gian phát triển kinh tế biển trên cơ sở phân vùng không gian dựa vào hệ sinh thái và theo chức năng sử dụng biển, đảo và vùng ven biển; phân bổ không gian biển, vùng ven biển và đảo cho các ngành/lĩnh vực theo nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích và giảm xung đột không gian trong khai thác, sử dụng cùng một vùng ven biển, đảo và biển, giữa các tập thể và cá nhân. Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo; đồng thời, giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa biển đặc trưng Quảng Ninh để phát triển du lịch bền vững. Phát triển và quản lý bền vững kinh tế biển của tỉnh theo phương thức quản trị biển dựa vào không gian, liên ngành với sự tham gia thực chất của các cộng đồng dân cư và doanh nghiệp[4].

Như vậy, quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 cũng như kế hoạch phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh là sự cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển kinh tế biển. Theo đó, để đạt được mục tiêu đề ra, tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo cơ quan chuyên môn khẩn trương xây dựng đồng bộ các giải pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản, sớm quy hoạch phát triển nghề nuôi biển bền vững; phát triển hợp lý phương tiện khai thác hải sản xa bờ; đầu tư, nâng cấp các cảng cá, bến cá, khu neo đậu tàu thuyền, tổ chức tốt dịch vụ hậu cần nghề cá, phát triển kinh tế biển bền vững gắn với bảo đảm chủ quyền biển, đảo quốc gia; phấn đấu đến năm 2025, toàn tỉnh phải hình thành ít nhất 3 khu, vùng nuôi trồng thủy sản được công nhận là vùng nông nghiệp ứng dụng cao.

Để đẩy nhanh phát triển kinh tế biển, Ban Chỉ đạo phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Quảng Ninh đã xây dựng, triển khai đến các sở, ban, ngành, đơn vị, địa phương có biển thực hiện 50 đề tài, dự án, nhiệm vụ, tập trung vào các nội dung: Quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ; phát triển kinh tế biển, ven biển; bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai; nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa biển; xã hội gắn bó, thân thiện với biển; bảo đảm quốc phòng, an ninh trật tự, đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển; khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển. Cùng với đó, Quảng Ninh định hướng phát triển các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: Du lịch và dịch vụ; Kinh tế hàng hải; Công nghiệp ven biển; Khu công nghiệp, khu kinh tế và khu đô thị ven biển; Kinh tế thủy sản; Khai thác khoáng sản biển; Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển kiểu mới. Ngoài ra, với tư duy đột phá, Quảng Ninh đã huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng, hoàn thiện, khai thác tốt hệ thống kết cấu hạ tầng du lịch, dịch vụ gắn với hạ tầng giao thông đồng bộ nhằm phục vụ phát triển kinh tế nói chung, kinh tế biển nói riêng; tập trung đầu tư nâng cấp và phát triển hệ thống hạ tầng thương mại phục vụ phát triển du lịch như: trung tâm thương mại, hệ thống chợ, siêu thị, cửa hàng tiện ích, điểm bán hàng tự động... gắn với khai thác hiệu quả hệ thống cửa khẩu, cảng hàng không quốc tế và cảng biển. Nhờ đó, kinh tế biển Quảng Ninh có nhiều khởi sắc.

Sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về phát triển kinh tế biển, có thể thấy, tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều đột phá, luôn chú trọng đến phát triển kinh tế biển, cảng biển với nhiều quyết sách hợp lý, đúng đắn và hiệu quả. Các hoạt động khai thác, kinh doanh sản xuất tại cảng biển luôn được quan tâm, tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp khai thác, phát triển theo hướng hiện đại và bền vững. Đặc biệt, với hệ thống cảng biển, hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đã và đang được đầu tư đồng bộ như hiện nay, sẽ là những điều kiện thuận lợi để Quảng Ninh phát triển dịch vụ cảng biển, logistics thuận lợi trong thời gian tới, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành dịch vụ.

Với sự quan tâm đầu tư đồng bộ, hiệu quả, kinh tế biển của tỉnh ngày càng phát huy và khẳng định được vị thế. Tổng doanh thu dịch vụ cảng biển năm 2021-2022 trên địa bàn tỉnh đạt 6.230 tỷ đồng, tăng bình quân 27,5%/năm, cao hơn mục tiêu đề ra là 17,5%/năm. Đến hết năm 2022, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ cảng biển đạt khoảng 0,49% trong GRDP của tỉnh, tăng 0,09 điểm % so với năm 2020 và tiếp tục tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm 2023. Hơn nữa, Quảng Ninh đã hoàn thành đưa vào khai thác Cảng khách quốc tế Hòn Gai theo tiêu chuẩn cảng khách du lịch quốc tế; rà soát quỹ đất, nghiên cứu bố trí khu vực hậu cần sau cảng và logistics tại khu vực Quảng Yên; hoàn thành mục tiêu thu hút đầu tư dự án cảng biển quan trọng gồm: Bến cảng tổng hợp Vạn Ninh, nghiên cứu đầu tư cảng Con Ong - Hòn Nét, cảng Hải Hà. Từ đó, dần hình thành các dịch vụ cảng biển chủ đạo, thế mạnh của tỉnh như: Dịch vụ lưu kho bãi và cho thuê kho bãi, xếp dỡ hàng hóa tại khu vực Quảng Yên, các khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, Bắc Phong Sinh, Hoành Mô - Đồng Văn. Ngoài ra, công tác rà soát, đề xuất xây dựng quy hoạch hệ thống cảng biển Quảng Ninh gắn với hệ thống giao thông kết nối các khu công nghiệp, khu kinh tế các vùng sản xuất lớn và những khu vực có tiềm năng về phát triển cảng biển, dịch vụ cảng biển, du lịch được triển khai mạnh mẽ.

Đánh giá sự đột phát của Quảng Ninh trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển kinh tế biển nói riêng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Quảng Ninh (tháng 4-2022) nhấn mạnh: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự hỗ trợ của Trung ương và phát huy bản lĩnh, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần năng động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Ninh, hơn 10 năm qua đã đạt được những thành tựu rất ấn tượng... Các nhiệm kỳ kế tiếp nhau đã thể hiện rõ tinh thần kế thừa, đổi mới và phát triển, đoàn kết nhất trí, dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn đột phá để chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”... Quảng Ninh vươn lên, đã và đang trở thành một trong những tỉnh đi đầu trong công cuộc đổi mới sáng tạo của vùng đồng bằng Bắc Bộ, một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc”. “Tôi hoan nghênh Quảng Ninh vừa qua đã có những đột phá, sáng tạo trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng...”[5].

Một số giải pháp phát triển kinh tế biển của tỉnh Quảng Ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Bên cạnh những kết quả đạt được, trên thực tế, phát triển kinh tế biển của Quảng Ninh chưa xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực logistics, cảng biển, phát triển du lịch biển đảo và nuôi trồng hải sản. Một số ngành kinh tế biển như du lịch và dịch vụ cảng biển, kinh tế hàng hải, nuôi trồng và khai thác hải sản, công nghiệp ven biển... phát triển còn nhiều hạn chế, trong khi Quảng Ninh đặt ra mục tiêu giai đoạn 2022 - 2025 tốc độ tăng trưởng kinh tế biển đạt 11,5 - 12%, đóng góp của kinh tế biển vào cơ cấu GRDP của tỉnh đạt 22% - 23%; xây dựng Quảng Ninh là một trong những trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ giao thương quốc tế với 13,286 triệu lượt khách du lịch biển, đảo đến Hạ Long - Cẩm Phả - Vân Đồn - Cô Tô; tổng thu từ du lịch 71.737 tỷ đồng, doanh thu dịch vụ cảng biển khoảng 25.000 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 17,5%/năm... Ngoài ra, phát triển kinh tế biển chưa gắn kết hài hòa với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường; công tác an ninh, an toàn, phối hợp với tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, ứng phó với sự cố môi trường biển còn nhiều bất cập.

Trong những năm tới, tình hình quốc tế, khu vực dự báo còn nhiều diến biến phức tạp, khó lường. Ở trong nước, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, Việt Nam còn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, tác động đến phát triển kinh tế, xã hội nói chung, kinh tế biển nói riêng, trong đó có tỉnh Quảng Ninh.

Để tiếp tục phát huy tiềm năng, lợi thế, đặc biệt là thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về kinh tế biển, tỉnh Quảng Ninh cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục ưu tiên phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là du lịch, dịch vụ biển. Về vấn đề này, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Ưu tiên phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác...”[6]. Theo đó, Quảng Ninh cần tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch; thông tin và truyền thông cho các địa bàn trọng điểm, khu vực động lực phát triển du lịch ven biển, hải đảo: Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn, Móng Cái, Hải Hà, Cô Tô...; huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng, hoàn thiện, khai thác tốt hệ thống kết cấu hạ tầng du lịch, dịch vụ gắn với hạ tầng giao thông đồng bộ; đầu tư nâng cấp và phát triển hệ thống hạ tầng thương mại phục vụ phát triển du lịch (trung tâm thương mại, hệ thống chợ, siêu thị, cửa hàng tiện ích, điểm bán hàng tự động...) gắn với khai thác hiệu quả hệ thống cửa khẩu, cảng hàng không Quốc tế và cảng biển. Bên cạnh đó, Quảng Ninh cần tiếp tục có những chiến lược khả thi, dài hơi và phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay và phù hợp với những chỉ đạo Đảng, Nhà nước về phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm và làm việc tại Quảng Ninh (tháng 4-2022) là: “Nâng cao tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tiếp tục đổi mới tư duy, nếp nghĩ, cách làm để đưa Quảng Ninh phát triển mạnh mẽ hơn nữa, toàn diện hơn nữa, trở thành một tỉnh tiêu biểu của cả nước về các mặt...”.“Chú trọng kinh tế biển gắn với bảo vệ nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái để phát triển du lịch bền vững, xây dựng Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển của cả nước...”[7].

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và mọi tầng lớp nhân dân về phát triển kinh tế biển. Đây là giải pháp quan trọng. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của ngư dân trong quá trình khai thác thủy sản trên các vùng biển”[8]. Thực hiện chủ trương này, Quảng Ninh cần đa dạng hóa hình thức và nội dung tuyên truyền, giáo dục; định kỳ tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường các văn bản, tài liệu về phát triển bền vững kinh tế biển cho các ngành và địa phương triển khai thực hiện; xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình truyền thông về biển và hải đảo nhằm nâng cao nhận thức cho các tổ chức, cá nhân, học sinh, sinh viên, người dân, khách du lịch trong và ngoài nước. Hằng năm, tổ chức các chương trình, sự kiện kỷ niệm Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, ngày Đại dương Thế giới trên địa bàn tỉnh theo chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Bên cạnh đó, Quảng Ninh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của biển đối với phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, nhất là các cơ quan, tổ chức, người dân liên quan trực tiếp đến biển trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Xem đây vừa là yêu cầu cấp thiết trước mắt vừa là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; từ đó xác định và đề cao trách nhiệm của toàn xã hội đối với phát triển kinh tế biển. Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các cấp chính quyền, người dân và doanh nghiệp về sự cần thiết phải khai thác bền vững tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, góp phần tham gia phát triển kinh tế biển xanh.

Ba là, chú trọng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế biển. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh cần: “Đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật, công nghệ trong đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản...”[9]. Theo đó, Quảng Ninh cần áp dụng những thành tựu của cuộc “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, chuyển từ khai thác xuất khẩu thô sang chế biến sâu, tạo giá trị gia tăng và tiết kiệm tài nguyên biển; tận dụng các tiến bộ của cuộc “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” để ứng dụng hiệu quả vào các ngành kinh tế biển nhằm bảo đảm hiệu quả và phát triển bền vững; cần chú trọng xử lý hài hòa các vấn đề giữa phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Ngoài ra, cần phát triển khai thác và nuôi trồng thủy sản ven biển và trên biển theo công nghệ cao, hiệu quả và bền vững để tạo giá trị gia tăng của sản phẩm biển, góp phần tiết kiệm tài nguyên biển. Cụ thể, Quảng Ninh cần triển khai thực hiện tốt Đề án “Phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”. Triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu gắn với nhu cầu phát triển kinh tế biển như: Điều tra cơ bản và môi trường biển; nghiên cứu sản xuất giống, nuôi trồng thủy sản các đối tượng có giá trị kinh tế; đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cấp tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021 - 2025; nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất giống, nuôi trồng, chế biến và bảo quản các loài thủy hải sản chủ lực và đặc sản của địa phương; nghiên cứu mô hình phát triển kinh tế biển khu vực ven bờ tỉnh Quảng Ninh và phụ cận... Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ của các tổ chức khoa học như Trung tâm ứng dụng và thống kê khoa học công nghệ; Trung tâm khoa học và sản xuất lâm, nông nghiệp; Trung tâm khoa học kỹ thuật - sản xuất giống thủy sản; Trung tâm nghiên cứu vịnh Hạ Long, Trung tâm khoa học và công nghệ - Trường Đại học Hạ Long. Tăng cường năng lực, mở rộng đào tạo, nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Hạ Long về biển và đại dương.

Bốn là, phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng, an ninh. Đây là giải pháp mang tính nguyên tắc, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Phát triển bền vững kinh tế biển... gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh”[10]. Quán triệt chủ trương này, trong thời gian tới, Quảng Ninh cần tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án “Phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”; Đề án “Bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững”; Đề án xây dựng Hải đội dân quân biển thường trực trên địa bàn thành phố Cẩm Phả. Phối hợp nắm chắc tình hình, chủ động xây dựng, triển khai luyện tập các phương án, kế hoạch xử trí nhanh, chính xác, đúng chủ trương đối sách các tình huống xảy ra trên vùng biển và hải đảo, các hoạt động tập trung đông người, biểu tình gây mất an ninh, trật tự, bạo loạn cũng như các các tình huống phức tạp khác về an ninh, trật tự tại các khu vực ven biển, nơi có các hoạt động kinh tế biển, bảo đảm không bị động, bất ngờ. Đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ an ninh trật tự tại các cửa khẩu, cảng biển. Tăng cường công tác quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và hoạt động của người nước ngoài trên địa bàn tỉnh, quản lý các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự; bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên các tuyến vận tải ven biển, đường thủy nội địa. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng thế trận Biên phòng toàn dân gắn với thế trận quốc phòng và an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Hỗ trợ ngư dân vươn khơi bám biển, kết hợp sản xuất với bảo vệ chủ quyền biển đảo. Nâng cao chất lượng công tác nắm tình hình, dự báo, tham mưu chiến lược; nâng cao năng lực ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề biển, đảo để chống phá.

Năm là, phát triển kinh tế biển gắn với nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Đây là giải pháp mang tính đột phá. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phát triển kinh tế biển phù hợp với các chuẩn mực quốc tế... và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo”([11]). Đây là chủ trương đúng đắn, đã và đang được tỉnh Quảng Ninh quán triệt thực hiện với nhiều hiệu quả tích cực. Trong thời gian tới, trước yêu cầu mới của việc phát triển kinh tế biển gắn với nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo, trong kế hoạch phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2023, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh xác định: Bảo đảm cho người dân sinh sống và làm việc ở vùng biển, hải đảo được sử dụng hạ tầng kinh tế - xã hội như điện, nước ngọt, dịch vụ y tế, thông tin và truyền thông có chất lượng, nhằm nâng cao sức khỏe đời sống vật chất cũng như tinh thần. Cụ thể: Xây dựng hệ thống đường dây 22kV cấp điện mạch vòng, bảo đảm độ tin cậy cung cấp điện lưới cho huyện Cô Tô, 5 xã đảo huyện Vân Đồn và xã Cái Chiên - Hải Hà. Đến năm 2025, hoàn thiện nội dung việc đầu tư xây dựng mạch 2 đường dây cáp ngầm 22kV cấp điện cho các xã đảo của huyện Vân Đồn, 3 xã đảo tại huyện Cô Tô (xã Thanh Lân, xã Đồng Tiến và đảo Trần) và xã Cái Chiên - Hải Hà; triển khai Đề án “Nâng cao năng lực hệ thống y tế dự phòng và y tế điều trị; chất lượng chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”; xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng mạng lưới viễn thông tiên tiến, hiện đại, hoạt động hiệu quả, an toàn và tin cậy, bảo đảm, phủ sóng mạng di động 4G và cung cấp dịch vụ internet cáp quang đến 100% các khu vực dân cư sinh sống (bảo đảm 80% các hộ dân có kết nối internet cáp quang băng thông rộng cố định). Từng bước chuyển đổi đài truyền thanh hữu tuyến/FM đã hư hỏng, xuống cấp không còn hoạt động sang đài truyền thanh ứng dụng công nghệ thông tin - viễn thông. Bên cạnh đó, củng cố mạng lưới y tế khu vực biển, hải đảo đủ năng lực và phù hợp với đặc thù hoạt động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người dân vùng biển, hải đảo. Phát triển nguồn nhân lực y tế đủ về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho người dân vùng biển, đảo. Đầu tư, khai thác các thiết chế văn hóa thể thao cơ sở và đổi mới cơ chế quản lý để phát huy tối đa hiệu quả của các thiết chế văn hóa, thể thao sau đầu tư: nhà văn hóa, trung tâm văn hóa, điểm vui chơi... Phát huy bản sắc, giá trị lịch sử và văn hóa dân tộc, tri thức tốt đẹp trong việc ứng xử với biển, coi đây là nền tảng quan trọng để xây dựng văn hóa biển. Đó là những giải pháp cấp bách, thể hiện tư duy đột phá của tỉnh Quảng Ninh trong phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm đời sống nhân dân vùng biển, đảo.

***

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, với tư duy đột phá, Quảng Ninh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển kinh tế biển. Trong quá trình triển khai thực hiện, các đồng chí lãnh đạo tỉnh cũng như các sở, ban, ngành liên quan luôn chủ động, tích cực, bám sát thực tiễn để lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời phát triển kinh tế biển, đặc biệt là những chỉ đạo mang tính đột phá đã trực tiếp giải quyết được nhiều khó khăn, vướng mắc, làm cho kinh tế biển trở thành một động lực quan trọng, đóng góp to lớn vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong thời gian tới, trước những thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức đan xen, những giải pháp nêu trên là những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần được vận dụng sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế biển của Quảng Ninh, qua đó sớm đưa Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm kinh tế biển, là cửa ngõ trung chuyển của khu vực Đông Nam Á, một động lực phát triển của vùng và cả nước với hệ thống cảng biển nước sâu đồng bộ, hiện đại gắn với phát triển kinh tế chuỗi khu kinh tế, khu công nghiệp, đô thị biển - ven biển, đúng như lời chúc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm và làm việc tại Quảng Ninh: “Chúc Quảng Ninh tiến thật xa. Quảng Ninh như thế mới là Quảng Ninh”[12]./.


[1](1) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, lưu Văn phòng Trung ương Đảng.

[2](2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 125 - 126.

[3](3) Kế hoạch số 16/KH-UBND, ngày 18-1-2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, về phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, lưu Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

[4]() Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 11-2-2023, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050, lưu Văn phòng Chính phủ.

[5](5) Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm, làm việc tại tỉnh Quảng Ninh, tháng 4-2022, lưu Văn phòng Trung ương Đảng.

[6](6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 258

[7](7) Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm, làm việc tại tỉnh Quảng Ninh, tháng 4-2022, lưu Văn phòng Trun ương Đảng.

[8](8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 258.

[9](9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 258.

[10](10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 257 - 258.

[11](11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 257 - 258.

[12] (12) Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm, làm việc tại tỉnh Quảng Ninh, tháng 4-2022, lưu Văn phòng Trung ương Đảng.

31 December 2023
31 December 2023
CÁC BÀI HỘI THẢO