Thu hút nguồn lực hiện thực hóa các mục tiêu chính sách xã hội ở tỉnh Quảng Ninh
TS. Liên HàTrường Đại học Ngoại thương
Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp giải quyết các vấn đề xã hội, tạo động lực góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Quảng Ninh xác định mục tiêu cơ bản của chính sách xã hội là bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển, hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Để hiện thực hóa các mục tiêu chính sách xã hội, Quảng Ninh xác định cần phải huy động, bảo đảm các nguồn lực.
Kết quả và một số hạn chế
Chính sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống con người, như: điều kiện lao động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe,... và luôn gắn chặt, phụ thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Sau gần 4 thập niên đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020, các vấn đề xã hội được giải quyết ngày càng tốt hơn, góp phần cải thiện đời sống của những đối tượng chính sách xã hội, gia tăng sự đồng thuận và ổn định xã hội, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế.
Trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội, Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương: “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” và “các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh: “đổi mới cơ chế, huy động, phân bổ và đa dạng hóa các nguồn lực thực hiện chính sách xã hội phù hợp với nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp dân cư, nhóm xã hội, bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển, nhất là với lao động khu vực phi chính thức”. Quan điểm này được quán triệt sâu rộng, triển khai khá hiệu quả trong những năm đổi mới vừa qua.
Gần đây, Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2021/NĐ-CP, ngày 27-10-2021, về vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo làm rõ hơn cơ sở pháp lý cho các chủ thể tham gia đóng góp nguồn lực. Trong Quyết định số 90/QĐ-TTg, ngày 18-1-2022, phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 của Chính phủ, về nội dung huy động vốn đã nêu rõ, ngân sách nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, tạo động lực, đồng thời huy động tối đa các nguồn lực xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững; bố trí vốn đối ứng từ ngân sách địa phương hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế và tăng cường các nguồn huy động, đóng góp hợp pháp của doanh nghiệp, nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; vốn đối ứng, tham gia, đóng góp của người dân, đối tượng thụ hưởng. Bảo đảm cân đối, bố trí, huy động đầy đủ, kịp thời theo đúng cơ cấu nguồn vốn đã được quyết định. Đặc biệt, ngày 19-4-2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2022/NĐ-CP, quy định cơ chế quản lý, huy động các nguồn lực từ ngân sách, nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.
Những quy định trên đã góp phần thúc đẩy huy động nguồn lực cho thực hiện chính sách xã hội trong những năm qua liên tục gia tăng về khối lượng, đa dạng về hình thức và hiệu quả không ngừng được nâng cao. Các nguồn lực huy động được thực hiện từ ngân sách, vốn tín dụng qua ngân hàng, chủ yếu ngân hàng chính sách xã hội, vốn từ doanh nghiệp và cộng đồng. Ngoài ra, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, nguồn vốn vay ưu đãi cũng được quan tâm huy động, nhất là trong thực hiện an sinh xã hội. Các nguồn lực huy động dưới dạng vốn, tiền mặt, hiện vật, ngày công,... và quan trọng hơn là nguồn lực tinh thần, sự đồng thuận, chia sẻ của các cấp, các ngành và doanh nghiệp cùng người dân.
Đối với Quảng Ninh, tỉnh có nhiều chính sách riêng có nhằm bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn, tiêu biểu như: người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) tự nguyện thường trú trên địa bàn tỉnh được hỗ trợ thêm ngoài mức hỗ trợ theo quy định của Chính phủ (hộ nghèo và cận nghèo được hỗ trợ 30%, đối tượng còn lại nhận hỗ trợ 20% mức đóng BHXH hằng tháng theo mức chuẩn hộ nghèo khu vực nông thôn); hỗ trợ 100% kinh phí mua bảo hiểm y tế (BHYT) cho hộ cận nghèo (Trung ương là 70%); hỗ trợ 100% kinh phí mua BHYT cho người từ đủ 70 tuổi trở lên đến dưới 80 tuổi không có lương hưu, không được hưởng trợ cấp BHXH hoặc trợ cấp xã hội hằng tháng và chưa được cấp thẻ BHYT theo các chính sách khác (quy định của Trung ương là từ 80 tuổi trở lên); hỗ trợ 80% chi phí mua BHYT cho người thuộc hộ nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình (Trung ương là 30%)... Hiện nay, tỷ lệ bao phủ BHYT trên địa bàn tỉnh đạt 94,25% dân số.
Cùng với đó, tỉnh tiếp tục triển khai đồng bộ các chế độ, chính sách đối với gia đình chính sách, người có công, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo... Riêng trong 6 tháng đầu năm 2023, tỉnh đã thực hiện trợ cấp 345.539 suất quà tết với tổng số tiền 191,8 tỷ đồng; hỗ trợ chính sách đặc thù theo Nghị quyết 21/2021/NQ-HĐND cho 6.218 lượt trẻ em với tổng số tiền 9,84 tỷ đồng.
Tỉnh Quảng Ninh đang tổ chức phát động và triển khai cuộc vận động huy động nguồn lực thực hiện mục tiêu xóa nhà ở tạm, nhà dột nát trên địa bàn năm 2023, phấn đấu hoàn thành việc xóa nhà tạm, nhà dột nát cho các đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người neo đơn, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đối tượng trọng yếu, đối tượng bảo trợ xã hội...
Tỉnh Quảng Ninh cũng đã xây dựng và triển khai Đề án phát triển nhà ở cho công nhân, lao động ngành than, khu công nghiệp, phấn đấu đến năm 2025 khởi công xây dựng khoảng 25.000 căn nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và người lao động; đáp ứng khoảng 50% tổng nhu cầu nhà ở xã hội của các đối tượng có thu nhập thấp. Hiện tỉnh đã khởi công và triển khai Dự án nhà ở công nhân Khu công nghiệp Đông Mai (phường Đông Mai, thị xã Quảng Yên) và Dự án nhà ở xã hội tại đồi Ngân hàng (thành phố Hạ Long), chuẩn bị điều kiện để tổ chức khởi công các dự án nhà ở xã hội nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập tỉnh.
Mặt khác, tỉnh và các địa phương cũng tích cực thực hiện các giải pháp nhằm đạt mục tiêu phấn đấu năm 2023 tạo 20.000 việc làm mới tăng thêm và giảm số người bị mất việc trong các doanh nghiệp. Trong 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho 9.600 lao động.
Tổng chi công tác an sinh xã hội của tỉnh 6 tháng đầu năm 2023 khoảng 1.037 tỷ đồng, tăng 81% so với cùng kỳ năm 2022. Nhờ đó, đời sống của người dân tiếp tục được nâng lên. Dự kiến 6 tháng đầu năm 2023, mức giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh đạt 0,041%. Sự quan tâm của tỉnh và các địa phương đối với công tác an sinh xã hội là động lực để người dân trên địa bàn an tâm phát triển sản xuất, từ đó tiếp tục thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển bền vững.
Tính đến hết năm 2022, tỉnh Quảng Ninh đã hoàn thành trước 3 năm Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025. Tỉnh Quảng Ninh xác định hoàn thiện cơ sở hạ tầng là yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, giảm nghèo bền vững. Thời gian qua, tỉnh đã triển khai dự án hỗ trợ hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo thông qua Chương trình 135 và Đề án 196. Riêng trong giai đoạn 2011 - 2020, tổng kinh phí đầu tư cho các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo trên địa bàn tỉnh là trên 2.630 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách tỉnh, huyện, xã và huy động từ doanh nghiệp, cá nhân là trên 1.987 tỷ đồng. Từ nguồn vốn này, tỉnh đầu tư xây dựng 630 công trình trường học, đường giao thông, nhà văn hóa, nước sạch tập trung, thủy lợi...
Nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo đảm phát triển bền vững, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, Quảng Ninh đã triển khai dự án cải thiện dinh dưỡng cho trẻ em nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn. Theo đó, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã triển khai Đề án vận động nguồn lực xã hội hỗ trợ trẻ em vùng khó khăn để hỗ trợ sữa cho 1.200 trẻ em mầm non tại các huyện Bình Liêu, Ba Chẽ được uống sữa liên tục trong 90 ngày; Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh tặng hơn 32.000 ly sữa cho học sinh Trường Mầm non Đồn Đạc (xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ)...
Bên cạnh những kết quả chủ yếu trên, việc huy động các nguồn lực thực hiện chính sách xã hội cũng còn hạn chế nhất định.
Một là, nguồn lực huy động cho chính sách xã hội so với yêu cầu còn hạn chế, chưa chủ động. Bên cạnh việc tăng nguồn của Trung ương phụ thuộc vào kết quả phát triển kinh tế, việc huy động được các nguồn vốn sẵn có của từng địa phương còn ít, quan điểm trông chờ ỷ lại vào nguồn vốn ngân sách vẫn còn tồn tại. Đáng chú ý, trong các chương trình dự án về giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới, mục tiêu đặt ra đôi khi cao hơn so với khả năng huy động nguồn lực, nên gặp khó khăn trong thực hiện.
Hai là, một số chính sách xã hội còn chồng chéo về đối tượng và địa bàn, nên việc thực hiện phân bổ, sử dụng nguồn lực chưa thực sự hiệu quả, làm ảnh hưởng đến hoạt động huy động nguồn lực. Các trụ cột chính sách xã hội được thiết kế và triển khai thực hiện hầu hết theo ngành dọc, chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng cung cấp dịch vụ; thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích khu vực ngoài nhà nước tham gia vào cung cấp dịch vụ công, ảnh hưởng không nhỏ đến huy động nguồn lực.
Ba là, cơ chế, chính sách huy động nguồn lực nói chung và cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội chưa thực sự hiệu quả. Một bước tiến trong nhận thức và cơ chế thực hiện chính sách xã hội là phải có sự gắn kết, phối hợp giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, tuy nhiên, thực tế khi giải quyết các vấn đề xã hội vẫn phụ thuộc rất lớn vào nguồn lực nhà nước; chưa tạo được cơ chế hiệu quả động viên, thu hút được sự tham gia của nhiều doanh nghiệp và xã hội. Việc huy động và liên kết các nguồn lực của chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và nguồn lực xã hội hóa để đáp ứng một cách linh hoạt, kịp thời, hiệu quả nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội của người dân còn nhiều bất cập; chưa có cơ chế điều phối linh hoạt để thích ứng với các biến động lớn như dịch bệnh, thiên tai trên diện rộng; thậm chí trái lại, còn nảy sinh hiện tượng tiêu cực, làm thất thoát nguồn lực.
Bốn là, vẫn còn tâm lý ưu tiên nguồn vốn cho sản xuất, chưa đặt chính sách xã hội thực sự ngang hàng với chính sách kinh tế. Thực tế đầu tư cho phát triển kinh tế với đầu tư cho lĩnh vực xã hội còn có sự khác biệt, trong khi nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng luôn tăng thì đầu tư cho các lĩnh vực xã hội mặc dù có tăng, song chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Ngay trong triển khai các chương trình, dự án cũng chưa thực sự gắn nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh với nguồn lực cho các chính sách xã hội trong quá trình huy động và giải ngân, dẫn đến không phát huy hiệu quả của các nguồn lực đầu tư, thậm chí gây lãng phí, nhất là với các công trình dự án thiếu hạ tầng xã hội.
Đề xuất một số giải pháp trong thời gian tới
Trên quan điểm mỗi người dân đều được hưởng thành quả tăng trưởng bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều chính sách riêng có về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và ưu tiên bố trí nguồn lực lớn cho các vùng đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách, yếu thế, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng miền. Hoàn thành đưa điện lưới quốc gia đến 100% số thôn, bản vùng cao, biên giới và các đảo có dân cư sinh sống. Mở rộng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng cao và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Toàn tỉnh có 85% số trường chuẩn quốc gia; tỷ lệ bác sĩ/vạn dân đạt 14,8; tỷ lệ giường bệnh/vạn dân đạt 54,6; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 95%, đều cao hơn bình quân chung cả nước. Đó cũng chính là việc hướng đến các tiêu chí của “hạnh phúc” mà Nghị quyết Đại hội XIII đã nêu lên, mà cốt lõi là người dân phải được hưởng phúc lợi xã hội, hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần.
Để gia tăng nguồn lực thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội cần có hệ giải pháp đồng bộ, trong đó, trước mắt cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền về vị trí vai trò của chính sách xã hội cũng như việc huy động nguồn lực cho hiện thực hóa các mục tiêu chính sách xã hội; thực sự coi trọng và đặt ngang hàng với chính sách kinh tế. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và cán bộ, đảng viên về trách nhiệm thực hiện chính sách xã hội; xác định rõ chính sách xã hội chăm lo tốt cho người dân là nhiệm vụ chiến lược, là trách nhiệm thường xuyên phải thực hiện; đặt con người vào trung tâm chính sách; phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp, đoàn kết, “tương thân, thương ái” của dân tộc.
Thứ hai, đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh để tạo môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, từ đó mở rộng khả năng gia tăng nguồn lực cho thực hiện các mục tiêu xã hội. Đây chính là giải pháp tạo và nuôi dưỡng nguồn lực. Sự phát triển kinh tế chính là cơ sở vật chất cho gia tăng các nguồn lực thực hiện chính sách xã hội. Trong các yếu tố của môi trường đầu tư, cần chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, tinh giản biên chế để giảm gánh nặng tài chính cho xã hội. Thực hiện các mục tiêu xã hội, nhằm bảo đảm phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội.
Thứ ba, xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, bao trùm, bền vững và xác định rõ vai trò, trách nhiệm các chủ thể tham gia thực hiện. Cần tiếp tục hoàn thiện mô hình an sinh đa tầng, khuyến khích mọi người dân tham gia lao động, tạo ra thu nhập, của cải để nuôi dưỡng bản thân và gia đình, góp phần phát triển xã hội. Tăng cường vai trò, trách nhiệm tham gia, đóng góp và thụ hưởng của Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức và người dân trong hệ thống được xác lập theo xu hướng tiến bộ, bảo đảm hài hòa lợi ích và quyền công dân. Với việc lồng ghép các mục tiêu xã hội vào các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cần được tăng cường để phát huy tốt hơn sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và các đối tượng chính sách xã hội.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế, chính sách và đa dạng hóa hình thức huy động. Đây là giải pháp tác động trực tiếp đến việc huy động các nguồn lực cho thực hiện các mục tiêu xã hội. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động tín dụng chính sách xã hội, nâng cao vai trò, trách nhiệm cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội. Bên cạnh đó, việc đóng góp hiện vật và công sức, phổ biến cách thức, mô hình làm ăn,... cũng cần được huy động, nhất là với các hoạt động từ thiện nhằm bảo đảm cuộc sống và tạo sinh kế cho người dân. Việc huy động nguồn lực trên tinh thần tự nguyện, vừa sức dân, tránh huy động chồng chéo (một người ủng hộ nhiều nơi).
Thứ năm, chú trọng đổi mới cơ chế để khai thông các “điểm nghẽn”, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực với phương châm nội lực là căn bản, ngoại lực là quan trọng, kết hợp chặt chẽ nội lực với ngoại lực tạo ra nguồn lực tổng hợp tối ưu; lấy “đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư” nâng cao hiệu quả đầu tư theo hình thức đối tác công - tư và xã hội hóa; ngân sách tập trung cho an sinh xã hội và các công trình có tính chất động lực lan tỏa. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thực hiện chính sách xã hội. Thông qua hợp tác quốc tế, không chỉ học tập kinh nghiệm trong thực hiện chính sách xã hội nói chung, kinh nghiệm huy động nguồn lực nói riêng mà đây chính là một trong những kênh có thể huy động nguồn lực rất quan trọng cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội.
Thứ sáu, phát huy dân chủ, ý chí tự lực, tự cường, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền với nhân dân; củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền; củng cố khối đại đoàn kết, tạo sự đồng thuận xã hội. Lấy “dân làm gốc”, nhân dân vừa là trung tâm, chủ thể, vừa là nguồn lực, động lực và mục tiêu của sự phát triển; bảo đảm tính bền vững, hài hòa ngay trong từng chính sách phát triển./.