Bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ở tỉnh Quảng Ninh
Trung tướng, PGS, TS. Trần Vi DânỦy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an

1. Xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đến nay có thể khẳng định là những điểm nhấn quan trọng nhất trong đổi mới ở nước ta kể từ năm 1986. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế được hợp thành bởi “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”[1]. Về hội nhập quốc tế, đến nay chưa có định nghĩa hay khái niệm chung, nhưng có thể hiểu đó là: “hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc”[2]. Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dễ thấy yếu tố hội nhập vừa là điều kiện, vừa là động lực. Hội nhập là điều kiện trong phát triển kinh tế bởi muốn phát triển kinh tế phải hội nhập kinh tế, từ chối việc hội nhập, sự phát triển kinh tế đất nước sẽ không đáp ứng được mục tiêu đề ra. Hội nhập là động lực của sự phát triển kinh tế, vì qua hội nhập giúp cho chúng ta có thể thu hút đầu tư và chủ động đầu tư (như thời gian gần đây)[3], tiếp cận, làm chủ khoa học và công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng suất của nền kinh tế. Nhìn tổng thể, trong hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế luôn đi trước, mở đường cho các lĩnh vực hội nhập khác. Hiện nay, hội nhập kinh tế của nước ta thực chất là việc tham gia vào các định chế kinh tế quốc tế, điểm nhấn là các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Nhìn lại gần 40 năm đổi mới và những thành tựu đã đạt được của đất nước cho thấy cách tiếp cận này là hợp lý. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại những thành tựu ngoài sức mong đợi, như lời khẳng định của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[4]. Để đạt được những kết quả này là sự cố gắng của toàn hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiều giải pháp đồng bộ đã được thực hiện từ vĩ mô đến vi mô. Trong đó việc nhận diện đầy đủ các nguy cơ, thách thức về an ninh kinh tế, đề ra các giải pháp bảo đảm an ninh kinh tế phù hợp đóng vai trò đặc biệt quan trọng [5].
An ninh kinh tế Việt Nam là sự phát triển ổn định, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Bảo vệ an ninh kinh tế là một bộ phận của bảo vệ an ninh quốc gia; thể hiện ở việc bảo đảm thực hiện đúng đắn, có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước; bảo vệ các bí mật nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, sự an toàn của cơ sở vật chất, kĩ thuật và tài sản quốc gia, các mục tiêu kinh tế trọng điểm và đội ngũ cán bộ khoa học, kĩ thuật, cán bộ quản lý kinh tế trước các yếu tố xâm hại an ninh kinh tế, đó là: (i) Âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch; (ii) hoạt động của các loại tội phạm kinh tế; (iii) hạn chế, khuyết điểm trong quá trình điều hành kinh tế. Bảo đảm an ninh kinh tế luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, mang tính toàn dân, toàn diện, do lực lượng Công an nhân dân làm chủ trì, nòng cốt. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế luôn có đóng góp đặc biệt quan trọng của công tác bảo vệ an ninh quốc gia (bảo đảm an ninh kinh tế), bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Nhận thức rõ trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế về kinh tế luôn chứa đựng vấn đề an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội[6]. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu, góp phần nâng cao sức mạnh kinh tế của đất nước, yếu tố quan trọng quyết định nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, qua đó bảo đảm an ninh quốc gia (an ninh kinh tế) tốt hơn. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế luôn tồn tại mặt trái có thể tạo ra các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế, qua kinh tế để chuyển hóa chính trị ở nước ta. Điều này có thể xuất hiện bởi hai nguyên nhân chính: (i) Xác lập đường lối và chiến lược không phù hợp, chứa đựng trong đó những yếu tố đe dọa an ninh, an toàn quốc gia (lại có thể bởi nhiều những nguyên nhân khác nhau); (ii) có đường lối, chiến lược đúng nhưng sai lầm trong triển khai thực hiện (cũng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau). Từ những nhận thức ấy, đường lối, chiến lược kinh tế của Đảng, Nhà nước ta đã xác lập và triển khai thực hiện thời gian qua không chủ quan, nóng vội, chỉ chú trọng đến yếu tố “phát triển, lợi ích kinh tế” mà bỏ qua yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế đất nước, luôn gắn chặt, bảo đảm mục tiêu kép phát triển kinh tế và bảo đảm tốt an ninh, trật tự. Đặc biệt, khi tham gia vào các FTA thế hệ mới, với cách tiếp cận nêu trên, chúng ta đã tận dụng những thời cơ và có giải pháp để khắc chế các tác động tiêu cực đến an ninh kinh tế, tiếp đó là an ninh chính trị, an ninh văn hóa, tư tưởng, an ninh xã hội, an ninh thông tin, an ninh mạng, an ninh môi trường, an ninh con người; trật tự, an toàn xã hội[7]. Khái quát lại, từ kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội đã tận dụng tốt được thời cơ, bảo vệ vững chắc cho sự phát triển kinh tế theo hướng ngày càng ổn định, phát triển bền vững trong quá trình đổi mới.
Trong bối cảnh mới, vấn đề bảo vệ an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của đất nước ta sẽ tiếp tục có những thuận lợi và thách thức. Việc tận dụng thuận lợi, hóa giải thách thức theo đó vẫn cần cách tiếp cận và giải quyết vấn đề theo như đã phân tích ở trên.
2. Ở phạm vi các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập, giao thương quốc tế trong tình hình hiện nay thực chất là bảo đảm an ninh kinh tế đất nước trên một địa bàn. Nó chứa đựng trong đó những yếu tố vĩ mô, nhưng cũng rất cụ thể. Tuy nhiên, với mỗi địa bàn khác nhau, sẽ có những điểm khác biệt. Đối với địa bàn tỉnh Quảng Ninh, một địa phương được ví như “Việt Nam thu nhỏ”, cần làm gì để bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập, giao thương quốc tế? Để trả lời câu hỏi này, cần bắt đầu từ nhận diện những yếu tố tác động đến tính ổn định, phát triển bền vững của hoạt động kinh tế trên địa bàn theo cả hai khía cạnh tích cực và không mong muốn. Trên cơ sở đó, đưa ra nhận thức và định hướng những giải pháp phù hợp, cũng như các khuyến nghị cần thiết. Trước hết, nhận diện về các yếu tố thuận lợi đó là:
(i) Quảng Ninh có điều kiện tự nhiên để phát triển kinh tế - xã hội, giao thương quốc tế: Là tỉnh duy nhất vừa có đường biên giới trên bộ (119 km), vừa có đường biên giới trên biển (191 km) với Trung Quốc; có tiềm năng phát triển kinh tế biển, thương mại, du lịch[8], dịch vụ, logistic, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, lâm nghiệp...
Thứ hai, Quảng Ninh là một tỉnh có truyền thống lịch sử cách mạng, một trong những cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam, nơi tiếp cận sớm với sản xuất công nghiệp, văn hóa phong phú, đặc sắc, kết hợp giữa văn hóa địa phương và văn hóa các vùng miền[9]. Chính vì vậy, con người Quảng Ninh luôn mang bản chất của giai cấp công nhân, có ý chí cách mạng, năng động, sáng tạo, có đầy đủ các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, Quảng Ninh có “rừng vàng, biển bạc”, sông núi, nước non, nhiều tài nguyên khoáng sản, trong đó đáng kể nhất là tập trung trữ lượng than lớn nhất cả nước, đá vôi, đất sét... Cùng với sự phát triển và trường tồn của dân tộc, đất nước, con người Việt Nam, Quảng Ninh là địa phương có nhiều di tích lịch sử lớn (có hơn 500 di tích lịch sử và danh thắng đặc sắc gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc).
Thứ tư, Quảng Ninh được xác định là trọng điểm kinh tế, đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, tam giác động lực tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; trung tâm du lịch kết nối với khu vực và thế giới; trung tâm kinh tế biển hiện đại, mang tầm quốc tế, hàng đầu ở Đông Nam Á, là cửa ngõ, động lực phát triển của vùng. Đặc biệt, đã xây dựng được hệ thống giao thông đường bộ, cao tốc, đường thủy, hàng không thuận tiện, có nhiều cảng lớn, dễ dàng kết nối, trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa trong nước và đầu mối thông thương khu vực, quốc tế.
Có thể khái quát lại, Quảng Ninh có những lợi thế sẵn có mà hiếm địa phương nào trên cả nước có được. Đặt trong bối cảnh hiện nay, Quảng Ninh vẫn còn lợi thế so sánh rất lớn để phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế; từ đó thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được kì vọng. Trên thực tế, trong những năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự quyết tâm, cố gắng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh, tỉnh Quảng Ninh đã phát triển mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao so với bình quân chung của cả nước, giai đoạn 2016 - 2022, 06 tháng đầu năm 2023 đều tăng trưởng trên 10%. Năm 2022, quy mô nền kinh tế của tỉnh đạt 269.000 tỷ đồng, tăng 17,4% so với năm 2021, GRDP bình quân đầu người đạt 197,6 triệu đồng/người, gấp hơn hai lần cả nước; cả ba khu vực kinh tế gồm dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, nông - lâm - ngư nghiệp đều tăng trưởng, trong đó khu vực dịch vụ, du lịch phục hồi mạnh mẽ, đạt tốc độ tăng trưởng cao (14,37%), ngày càng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các lĩnh vực chính trị, xã hội được giữ ổn định; văn hóa, phát triển con người, giáo dục, y tế được quan tâm, đầu tư thỏa đáng; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền an ninh biên giới, biển, đảo được giữ vững. Mối quan hệ giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền với nhân dân được củng cố, gắn bó chặt chẽ, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững mạnh.
Tuy nhiên, vẫn có không ít thách thức đặt ra cho Quảng Ninh trong bước đường tiếp theo. Đó là: Tăng trưởng kinh tế trong một số lĩnh vực không đạt chỉ tiêu đề ra. Nguồn nhân lực chất lượng cao còn yếu và thiếu. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhất là quản lý tài nguyên, khoáng sản, đầu tư công, đất đai... có mặt còn hạn chế. Tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật tuy đã được kiềm chế, kiểm soát, nhưng chưa vững chắc. Một số vấn đề, mâu thuẫn đã được phát hiện, nhận thức sâu sắc, từng bước giải quyết, nhưng chưa được như mong muốn, như: Giữa khai thác than, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia với phát triển du lịch, dịch vụ trên cùng một địa bàn; giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa với phát triển nông nghiệp sinh thái, bảo vệ môi trường... Thực trạng này cho thấy còn tiềm ẩn những yếu tố thiếu ổn định, bền vững trong phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế trên địa bàn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế này, dưới góc nhìn phát triển bền vững gắn với đặc điểm địa phương và an ninh kinh tế có thể nhận diện các nguyên nhân đó là: (i) Quảng Ninh đã tiếp cận ngưỡng đầu của sự khan hiếm tài nguyên hữu hạn, biến đổi môi trường tiêu cực, suy giảm lợi thế cạnh tranh tự nhiên sẵn có. Đây có thể coi là thách thức lớn nhất về an ninh kinh tế, cần được nhận thức sâu sắc, đầy đủ. Muốn phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, vấn đề tài nguyên hữu hạn, yếu tố môi trường và lợi thế cạnh tranh tự nhiên luôn cần được xem xét. Về những vấn đề này, rõ ràng Quảng Ninh đang bắt đầu đối mặt với những thách thức bởi sự khan hiếm tài nguyên đất, sự biến đổi không tích cực của môi trường với phát triển của nhiều ngành, nghề kinh tế, những yếu tố trước đây vốn là lợi thế nay đã suy giảm[10]. (ii) Để phát triển kinh tế bền vững, cần đến nguồn nhân lực chất lượng cao, dám đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, bao gồm cả cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống chính trị, doanh nhân, công nhân, người lao động. Tuy nhiên ở thời điểm hiện tại về tổng thể đây chưa phải là thế mạnh của Quảng Ninh. (iii) Mặc dù là tỉnh công nghiệp, cái nôi của giai cấp công nhân, nhưng khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi hình thức và cơ chế quản lý, hoạt động, nguồn nhân lực của tỉnh Quảng Ninh chưa đáp ứng tốt được yêu cầu này; Tư tưởng ỷ lại điều kiện, lợi thế tự nhiên, chủ quan vẫn tồn tại trong bộ phận cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, còn tâm lý trông chờ vào khai thác ngắn hạn, khai thác thô, dẫn đến việc triển khai chiến lược tổng thể, dài hạn, phát triển bền vững đối mặt với không ít khó khăn. Có sự dàn trải nhất định trong cơ cấu kinh tế, lĩnh vực, ngành nghề phát triển kinh tế. Thế mạnh trong phát triển kinh tế của Quảng Ninh là gì? Thoạt nhìn, sẽ thấy rất nhiều thế mạnh. Nhưng trên thực tế, để phát triển bền vững kinh tế của tỉnh thì cần phải xây dựng được những trụ cột kinh tế chính và từ đó sẽ phát triển toàn diện. Nhắc tới Quảng Ninh là nhắc tới du lịch và điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều loại hình du lịch[11]. Nhưng đến nay, những đóng góp của du lịch cho sự phát triển kinh tế của Quảng Ninh chưa tương xứng, chưa mang tính động lực. Cùng với du lịch là thương mại, dịch vụ, đây cũng là tiềm năng nhưng chưa biến thành điểm mạnh của Quảng Ninh, đặc biệt là logistic, dịch vụ cảng biển[12]. Công nghiệp Quảng Ninh, cái nôi của công nghiệp khai thác mỏ của quốc gia, cùng hệ thống công nghiệp phụ trợ, nhưng đến nay vẫn còn nhiều hạn chế; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng chậm so với tiềm năng, lợi thế; công nghiệp hỗ trợ còn thiếu và yếu; tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp đã có chuyển biến tích cực trong thời điểm hiện tại bởi nhiều giải pháp đồng bộ, nhưng còn thấp, các khu công nghiệp chưa thực sự trở thành hạt nhân, động lực thúc đẩy tăng trưởng[13]. Bên cạnh đó, dường như còn thiếu tính toàn diện khi chưa có các giải pháp vững chắc về an ninh, an toàn trước mắt và lâu dài trong hoạt động của các khu công nghiệp, nhất là an ninh công nhân, an sinh xã hội (nguyên nhân của mâu thuẫn, xung đột xã hội); (iv) Mặc dù những chỉ số kinh tế về thu nhập bình quân, năng suất lao động của tỉnh Quảng Ninh ở mức gấp đôi mức trung bình cả nước, tuy nhiên an sinh xã hội vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo cũng là thách thức, chưa có sinh kế bền vững, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo còn xa, trình độ phát triển giữa các vùng, khu vực còn cách biệt. Không phải cào bằng “bình quân chủ nghĩa”, song cũng đặt ra vấn đề cần nhận thức và nâng cao trình độ phát triển con người, mức sống dân cư, bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội. (v) Thị trường xuất nhập khẩu của tỉnh chưa thật sự đa dạng. Trung Quốc vẫn là đối tác lớn nhất và giữ quyền chủ động cao hơn trong hoạt động giao thương giữa hai nước. (vi) Âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động luôn tiềm ẩn: Nguy cơ người nước ngoài đầu tư “núp bóng”, thâu tóm thị trường, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, chiếm lĩnh các lĩnh vực kinh tế trọng yếu, vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh; tác động, can thiệp vào nội bộ; ảnh hưởng tiêu cực đến độc lập, tự chủ của nền kinh tế và quốc phòng, an ninh; tác động, lôi kéo người lao động tham gia hoạt động biểu tình, đình công, bãi công, thực hiện hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho kinh tế - xã hội, mất an ninh, trật tự trên địa bàn; lợi dụng các cam kết quốc tế của Việt Nam trong tham gia, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để thúc đẩy liên kết, phát triển lực lượng, hình thành các liên minh, mạng lưới “xã hội dân sự”, “công đoàn độc lập”, tạo tiền đề cho việc hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước; hoạt động gián điệp, cài cắm nội gián vào các cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế. (vii) Hoạt động của các loại tội phạm diễn biến phức tạp: Tội phạm tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại, mua bán hàng giả; tội phạm quốc tế, cấu kết với các đối tượng trong nước sử dụng công nghệ cao với thủ đoạn tinh vi để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, xâm nhập trái phép vào hệ thống thanh toán cước của các nhà mạng để chiếm đoạt tiền cước viễn thông; thực hiện các hành vi rửa tiền, chuyển tiền trái phép ra nước ngoài; mua bán, sử dụng thông tin cá nhân, tài khoản ngân hàng của người dân vào hoạt động phạm tội; mã hóa dữ liệu “tống tiền” các tổ chức, doanh nghiệp; hoạt động tín dụng đen; kinh doanh đa cấp; kêu gọi người dân “góp vốn” đầu tư kinh doanh rồi dùng thủ đoạn chiếm đoạt... (viii) Năng lực lãnh đạo, quản lý và điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp thông qua nhiều vụ việc đã được xử lý trong thời gian qua đã chỉ ra những hạn chế, thiếu sót mà việc khắc phục không phải là một sớm một chiều.
4. Trong những năm tới, dự báo tình hình quốc tế, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Cạnh tranh giữa các nước lớn, xung đột tại các điểm nóng trên thế giới, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bảo hộ... tiếp tục đe dọa sự ổn định của môi trường chính trị, kinh tế toàn cầu; tác động trực tiếp đến Việt Nam. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bên cạnh mặt thuận lợi cũng tạo ra nguy cơ gia tăng khoảng cách về công nghệ, kinh tế giữa các quốc gia. An ninh truyền thống, phi truyền thống diễn biến phức tạp, các nguy cơ đe dọa chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, sự vững mạnh của hệ thống chính trị, vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng hiện hữu hơn; các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu, hoạt động chống phá Nhà nước và nhân dân ta mà nguy hiểm nhất là thông qua kinh tế để chuyển hóa chính trị. Trật tự, an toàn xã hội cũng có những diễn biến mới; tội phạm về kinh tế hoạt động ngày càng tinh vi, có tổ chức, xuyên quốc gia, sử dụng công nghệ cao.
Để bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ở tỉnh Quảng Ninh, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, thật sự là đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, trước hết cần thấu suốt và có giải pháp thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược nhưng cũng rất cụ thể trên địa bàn, đó là: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Cần xác lập một hệ thống giải pháp tổng thể để sự phát triển kinh tế Quảng Ninh đúng định hướng với đường lối của Đảng, Nhà nước, kỳ vọng của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Theo đó, phát triển bền vững, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nội lực và quyết tâm cùng việc tận dụng các lợi thế của hội nhập quốc tế; loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện tiêu cực. Trên cơ sở đó, cần chú trọng một số kiến giải sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức về bảo vệ an ninh kinh tế cho các cơ quan, tổ chức, nhất là các đơn vị kinh tế trên địa bàn tỉnh. Trách nhiệm chính trong bảo vệ an ninh kinh tế là của thủ trưởng các ngành, các đơn vị kinh tế, không coi là nhiệm vụ của riêng lực lượng Công an nhân dân. Phát huy trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, cụ thể hóa, thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ an ninh kinh tế. Điều quan trọng hơn, từ chủ trương, đường lối chung của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh mới, cấp ủy, chính quyền địa phương cần xác định được chiến lược ổn định, phát triển bền vững về kinh tế của tỉnh Quảng Ninh.
Hai là, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, là hạt nhân lãnh đạo, tiêu biểu về trí tuệ, đạo đức, đoàn kết, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng chính quyền hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thực sự “của dân, do dân, vì dân”. Xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc vững mạnh, thực chất, có bề rộng, chiều sâu. Bảo đảm an ninh công nhân, sớm phát hiện các mâu thuẫn, vướng mắc trong nhân dân, nhất là trong triển khai các hoạt động kinh tế để có giải pháp tháo gỡ kịp thời theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Cần khắc phục tư tưởng chủ quan, ỷ lại lợi thế tự nhiên trong phát triển kinh tế, để từ đó tích cực đổi mới, sáng tạo.
Ba là, đẩy mạnh công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ bí mật nhà nước trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế. Thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước về bố trí, quản lý cán bộ, đảng viên làm việc tại bộ phận trọng yếu, cơ mật, hợp tác quốc tế; trong quan hệ, tiếp xúc với cá nhân, tổ chức nước ngoài. Quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, công dân ra nước ngoài công tác, học tập, trao đổi, tham quan, du lịch. Tăng cường quản lý việc tiếp nhận tài trợ từ nước ngoài, nhất là các dự án liên quan đến xây dựng chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của tỉnh.
Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái và tiến bộ công bằng xã hội; làm tốt công tác quy hoạch; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa kết hợp chặt chẽ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp. Phát triển công nghiệp xanh, công nghiệp sạch, công nghệ cao. Phát triển du lịch, dịch vụ giữ vai trò chủ đạo, nâng cao chất lượng các loại hình du lịch biển, đảo, du lịch tâm linh, du lịch rừng, kinh tế biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Theo dõi, nắm tình hình, dự báo sớm khả năng thay đổi chính sách biên giới, thương mại của các nước liên quan đến địa bàn tỉnh để kịp thời tham mưu giải pháp ứng phó hiệu quả. Có chính sách thu hút đầu tư phong phú, chất lượng cao với một cơ chế phù hợp, nhưng không nóng vội, chạy theo số lượng mà phải đề cao chất lượng toàn diện, hiệu quả và môi trường sinh thái. Thường xuyên quan tâm, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động; giải quyết từ sớm tranh chấp lao động, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động, chống phá.
Năm là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại (và ngược lại) trong chiến lược tổng thể cũng như từng bước đi, từng dự án, đề án, khu kinh tế. Thẩm định, đánh giá, giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư của nước ngoài đối với những ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng, then chốt và tại các địa bàn chiến lược, nhạy cảm. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn, phát huy giá trị di sản, kỳ quan, giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người, bản sắc địa phương; chủ động ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh, bền vững. Trên thực tế, về nhận thức, đây là điều đã được đúc rút và thống nhất cao, trở thành lý luận. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế sẽ chịu sự chi phối bởi những quy luật có mục tiêu cụ thể riêng. Bảo đảm an ninh, trật tự trong bối cảnh mới cũng chịu sự chi phối của những vấn đề có tính quy luật riêng và có mục tiêu cụ thể, không phải bao giờ cũng thống nhất với mục tiêu kinh tế - xã hội nếu thiếu sự gắn kết, quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên. Để bảo đảm yếu tố hài hòa và sự gắn kết, cần sự vào cuộc của các chủ thể từ nhiều phía, các tầng lớp nhân dân, ngay từ khâu xác định chiến lược và cả trong quá trình tổ chức thực hiện. Thực tiễn sẽ mách bảo sự hài hòa, phát triển ổn định sẽ đạt được bằng những giải pháp cụ thể nào.
Sáu là, quan tâm xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc vững chắc tại các cộng đồng dân cư, khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế, nơi tập trung đông người lao động. Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Quan tâm, chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo; mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh, văn minh./.
[1](1) Điều 51, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
[2](2) Đặng Đình Quý, Bàn thêm về khái niệm “hội nhập quốc tế” của Việt Nam trong giai đoạn mới, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 4-12-2012.
[3](3) Theo Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến tháng 3-2023, Việt Nam có 36.881 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 444,1 tỷ USD. Tính đến tháng 12-2022, Việt Nam có 1.611 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư trên 21,75 tỷ USD. Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Trung Quốc, lớn thứ 7 của Mỹ; lớn nhất của EU trong khối ASEAN.
[4](4) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 15-6-2021.
[5](5) Hệ thống các chủ trương (nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng), chính sách, pháp luật của Nhà nước.
[6](6) Để bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững, đúng định hướng của nền kinh tế, các yếu tố an ninh, an toàn là những điều kiện tiên quyết, không thể bỏ qua. Bảo đảm an ninh, an toàn ngay từ khâu xác định đường lối, chiến lược kinh tế trong bối cảnh hội nhập, bảo đảm mục tiêu đạt được khi thực hiện đường lối, chiến lược đó...
[7](7) Tham khảo thêm bài viết “Những tác động từ hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến an ninh, trật tự và một số kiến nghị”, Trần Vi Dân, Tạp chí Công an nhân dân số 7-2023, Kỳ 3.
[8](8) Quảng Ninh có hơn 2.000 hòn đảo (chiếm 2/3 số đảo của cả nước), 6.000km2 mặt biển, hàng trăm km2 bãi triều, eo vịnh và đường ven biển trải dài hơn 250 km; trong đó, 775 hòn đảo trong vùng lõi của vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới; Đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các ngành kinh tế mũi nhọn như du lịch, dịch vụ, khai khoáng, kinh tế biển, cảng biển, vận tải biển, tài nguyên biển, đánh bắt nuôi trồng thủy sản biển...
[9](9) Trong quá trình phát triển, văn hóa biển, văn hóa công nhân mỏ và văn hóa các dân tộc thiểu số miền núi đã có sự giao thoa, tiếp biến ảnh hưởng lẫn nhau, làm giàu bản sắc văn hóa Quảng Ninh.
[10](10) Quảng Ninh không phải là địa phương có lợi thế trong việc phát triển các khu công nghiệp vì quỹ đất và đặc điểm mặt bằng không thật sự thuận lợi. Môi trường Quảng Ninh đang có biến đổi theo hướng tiêu cực, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển du lịch, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản, kinh tế nông - lâm nghiệp. So với các địa phương trong nội địa và quốc tế, nhiều lợi thế trước đây của Quảng Ninh đã dần bị thu ngắn khoảng cách, mà rõ nét nhất là so với thành phố Hải Phòng, tỉnh Bắc Giang; tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Cùng với đó là vấn đề phát triển du lịch đi đôi với bảo tồn các di sản, di tích, kiến trúc văn hóa, lịch sử...
[11](11) Du lịch biển, đảo, sinh thái, văn hóa, lịch sử, tâm linh...
[12](12) Cảng biển Quảng Ninh ở thời điểm hiện tại khó có thể là lựa chọn của doanh nghiệp trong xuất nhập, vận chuyển hàng hóa vì chi phí tổng thể cao hơn so với cảng biển Hải Phòng ở khu vực phía Bắc.
[13](13) Theo đánh giá của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh hiện nay đạt 43%, thấp hơn mức bình quân cả nước là 72%; tỷ lệ lấp đầy của 05 cụm công nghiệp đã đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và đi vào hoạt động là 65,38%.