Tỉnh Quảng Ninh: Đột phá cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
TS. Thanh BìnhTrường Đại học Bắc Hà
Ngành công nghiệp của Quảng Ninh thời gian qua từng bước phát huy tiềm năng, thế mạnh, phát triển đúng định hướng, đạt được mục tiêu, kế hoạch đã đề ra. Năm 2022, trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng chiếm 50,9%, tăng 1,81%; dịch vụ và thuế sản phẩm chiếm 43,9%, tăng 0,44%. Những kết quả này từng bước đáp ứng được kỳ vọng, khẳng định ngành công nghiệp là một trong những ngành mũi nhọn, thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát triển.
1. Phần lớn các nước thu nhập thấp và trung bình trên thế giới đều lệ thuộc vào công nghiệp chế biến, chế tạo (CBCT) vì đây là lĩnh vực tạo ra nhiều việc làm cho lao động và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế. Ở nhiều quốc gia phát triển, công nghiệp CBCT đã phát triển nhanh chóng và đưa các quốc gia đó trở thành những nền kinh tế hàng đầu trên thế giới. Sự thành công của các quốc gia trong quá trình công nghiệp hóa, trở thành nước có thu nhập cao là minh chứng cho thấy công nghiệp CBCT là con đường phát triển, là “chìa khóa” để tạo nên sự thịnh vượng của các quốc gia.
Công nghiệp CBCT cung cấp một nền tảng quan trọng cho việc học hỏi và phát triển kỹ năng, đổi mới sáng tạo, gắn liền với hoạt động nghiên cứu phát triển. Các nước công nghiệp phát triển cũng chính là nơi sản sinh ra những ý tưởng và phát minh mới, những ngành công nghiệp quan trọng đối với tương lai kinh tế của đất nước, bao gồm các vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học, công nghệ nano và các thiết bị cơ khí chính xác.
Các tập đoàn đa quốc gia, những doanh nghiệp đầu chuỗi trong các ngành công nghiệp CBCT là những người đi đầu trong việc tạo ra sự đổi mới công nghệ sản xuất này, và các tập đoàn này đa phần thuộc về những nước có ngành công nghiệp phát triển. Sự cạnh tranh sức mạnh giữa các quốc gia hiện nay là sự cạnh tranh về công nghệ sản xuất. Sức mạnh của công nghệ sản xuất quyết định sức mạnh của quốc gia, và sức mạnh của công nghiệp CBCT là “chìa khóa” để các quốc gia đổi mới mô hình tăng trưởng, tiến lên nấc thang cao hơn của của sự phát triển.
Công nghiệp CBCT là một bộ phận của khu vực công nghiệp - xây dựng, là những ngành tham gia vào việc biến đổi hàng hóa, nguyên liệu hoặc các chất liệu khác nhau thành những sản phẩm mới. Quá trình biến đổi này có thể là vật lý, hóa học hoặc cơ học để chế biến, sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đó là những hoạt động kinh tế với quy mô sản xuất lớn, được sự hỗ trợ mạnh mẽ của tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển. Vật liệu, chất liệu, hoặc các thành phần biến đổi là nguyên liệu thô từ các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, khai thác mỏ hoặc quặng cũng như các sản phẩm khác của hoạt động CBCT. Những thay đổi, đổi mới hoặc khôi phục lại hàng hóa cũng được xem là hoạt động CBCT. Các chủ thể trong ngành này không chỉ là các doanh nghiệp, nhà máy hoặc xưởng sản xuất sử dụng máy móc và thiết bị thủ công để tạo ra sản phẩm, mà bao gồm cả các hộ gia đình làm ra sản phẩm thủ công tại nhà để bán ra thị trường, trong đó có sản phẩm như may mặc, thực phẩm,... cũng thuộc ngành công nghiệp CBCT. Các chủ thể của công nghiệp CBCT còn bao gồm các doanh nghiệp, hộ gia đình cung cấp dịch vụ gia công, xử lý vật liệu và bảo trì, bảo dưỡng, lắp đặt máy móc, thiết bị mà không trực tiếp làm ra sản phẩm.
Có thể thấy, không giống với các phân ngành công nghiệp khác, công nghiệp CBCT là ngành trực tiếp tạo ra nền tảng vật chất cho nền kinh tế và xã hội, sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho quốc gia; và cũng là ngành có mối liên hệ, gắn kết chặt chẽ, mật thiết nhất với 2 khu vực kinh tế còn lại là nông nghiệp và dịch vụ.
Vai trò của công nghiệp CBCT thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, là một bộ phận của ngành công nghiệp và là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân.
Trong các phân ngành công nghiệp, công nghiệp CBCT đóng vai trò chủ đạo, tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất cho khu vực công nghiệp và tác động lan tỏa tổng thể đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Quy mô, tốc độ phát triển của ngành ảnh hưởng tới quy mô, chiều hướng và tốc độ phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, cơ cấu của ngành công nghiệp CBCT có ảnh hưởng lớn tới cơ cấu chung kinh tế của một quốc gia. Tỷ trọng công nghiệp CBCT càng lớn, quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao thì đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của ngành này càng lớn.
Ở các nước công nghiệp, dù là nước đã phát triển từ lâu hay mới nổi, trong suốt 20 năm qua, công nghiệp CBCT vẫn luôn đóng góp khoảng 20% trong GDP. Năm 2019, khu vực sản xuất CBCT của Trung Quốc chiếm 27,1% GDP, Hàn Quốc 25,3%, Thái Lan 25,3%, Malaysia 21,5%, Nhật Bản 20,7%, Singapore 19,8% và Đức 19,4%. Cũng cần lưu ý là các cơ sở sản xuất, công nghiệp CBCT của các nước phát triển đã được dịch chuyển ra nước ngoài nhờ toàn cầu hóa và phân công lao động quốc tế thông qua dòng vốn đầu tư nước ngoài, do vậy trên thực tế năng lực công nghiệp CBCT các quốc gia này có thể còn lớn hơn nhiều.
Với Việt Nam, bình quân trong giai đoạn 2011 - 2020, công nghiệp CBCT chiếm tỷ trọng 14,9% GDP của toàn nền kinh tế. Tốc độ tăng bình quân GDP cả nước đạt 5,95% trong giai đoạn 2011 - 2020 nhờ tăng trưởng cao của ngành công nghiệp CBCT (đạt 10,44%/năm trong giai đoạn này).
Thứ hai, cung cấp việc làm, thu hút nhân công, giải quyết được một số vấn đề xã hội.
Trên thế giới, trước đây, nhờ phục hồi các ngành công nghiệp CBCT mà nước Mỹ trong những năm 1920, 1930 có thể cung cấp hàng chục triệu việc làm mới, vượt qua cuộc Đại suy thoái và nhanh chóng trở thành cường quốc thế giới. Năm 2019, tại Trung Quốc, 28,2% số việc làm được tạo ra từ ngành công nghiệp CBCT, tại Đức là 26,8%, Nhật 24,3%, Hàn Quốc 24,8%, Malaysia 27,2%, Thái Lan 23,4%. Gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của các ngành công nghiệp CBCT trong tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm, Chính phủ Hoa Kỳ triển khai nhiều biện pháp mạnh để đưa hoạt động sản xuất quay trở lại đất nước.
Nước ta có tỷ lệ lao động nông nghiệp tương đối cao, tuy nhiên, với trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, hoạt động sản xuất nông nghiệp được cải tiến, không sử dụng nhiều lao động chân tay mà tăng cường sử dụng máy móc, thiết bị. Chính vì vậy, nhu cầu tạo việc làm cho số lao động nông nghiệp dư thừa trở nên cấp bách. Công nghiệp CBCT là một trong những ngành giải quyết vấn đề xã hội. Trong những năm qua, một số ngành CBCT như dệt may, giày da, trang phục, chế biến nông sản,... phát triển mạnh một phần là nhờ khả năng thu hút nhiều lao động của các ngành đó.
Thứ ba, thúc đẩy liên kết chuỗi, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nội địa.
Hoạt động công nghiệp chế biến, đặc biệt là công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm thô từ nguyên liệu trong nước cho phép ngành CBCT có thể thực hiện liên kết chuỗi, gồm nhiều hoạt động công nghiệp chế biến trong nội bộ nền kinh tế, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nội địa. Từ đó tăng tính kết nối liên ngành, liên vùng trong nước và mở rộng hơn là tăng cường liên quốc gia, liên khu vực và quốc tế. Điều này làm cho ngành CBCT tạo ra tác động tổng hợp với sức mạnh lan tỏa phụ thuộc vào hệ số liên kết đối với nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra trong luồng giao dịch sản phẩm của các hoạt động kinh tế liên tỉnh, liên vùng và liên quốc gia.
Thứ tư, cung cấp tư liệu sản xuất cho quá trình sản xuất và tư liệu tiêu dùng phục vụ đời sống dân cư và phục vụ xuất khẩu.
Bất cứ ngành sản xuất nào cũng cần có tư liệu sản xuất, ví dụ như ngành nông nghiệp cần đến các công cụ sản xuất nông nghiệp, ngành dịch vụ cần những tư liệu để phân loại, bảo quản, đóng gói, phân phối các sản phẩm vật chất và dịch vụ. Với chức năng đó, ngành công nghiệp CBCT đã tạo ra những tư liệu sản xuất để vận hành các ngành nghề sản xuất, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò cung cấp sản phẩm tiêu dùng cho người dân ngày càng quan trọng với giá trị sử dụng các sản phẩm tiêu dùng cho đời sống ngày càng phong phú, đa dạng. Nếu như các sản phẩm công nghiệp CBCT trong thời kỳ trước chỉ tập trung vào giá trị sử dụng hay công dụng của sản phẩm thì ngày nay, các sản phẩm đó đã đáp ứng được yêu cầu về hiệu quả sử dụng (tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu, thời gian sử dụng lâu), đặc biệt là khả năng tái chế sau quá trình sử dụng, giảm thiểu các tác động bất lợi tới môi trường.
Thứ năm, góp phần quan trọng trong việc tích lũy cơ sở vật chất cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Để tạo dựng một nền công nghiệp CBCT phải hình thành và xây dựng một lượng vốn đầu tư khá lớn. Do được trang bị công nghệ và thiết bị hiện đại nên một số ngành công nghiệp CBCT có năng suất lao động cao, tạo ra tích lũy cao hơn so với lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Hơn nữa, sản xuất công nghiệp CBCT thường ít chịu ảnh hưởng bất lợi từ các yếu tố thời tiết nên ổn định. Do đó, kết quả tích lũy từ ngành công nghiệp CBCT sẽ được dùng cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và thực hiện kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong dài hạn.
Thứ sáu, thúc đẩy đổi mới công nghệ, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế.
Công nghiệp CBCT cung cấp một nền tảng quan trọng cho việc học hỏi và phát triển kỹ năng, đổi mới sáng tạo, gắn liền với hoạt động nghiên cứu phát triển. Các nước công nghiệp phát triển cũng chính là nơi sản sinh ra những ý tưởng và phát minh mới, những ngành công nghiệp quan trọng đối với tương lai kinh tế của đất nước, bao gồm các vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học, công nghệ nano và các thiết bị cơ khí chính xác. Sự ra đời của các công nghệ mang tính đột phá cũng đều xuất phát từ các ngành công nghiệp CBCT, là nền tảng của các cuộc cách mạng công nghiệp. Thế giới đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp, mỗi cuộc cách mạng đều được khởi xướng từ sự thay đổi có tính đột phá về công nghệ sản xuất. Nếu như các phát minh liên quan đến cơ khí chế tạo là nền tảng cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai, thì những phát minh về điện tử, cơ điện tử là nền tảng cho cuộc cách mạng thứ ba và tư gần đây.
2. Tỉnh Quảng Ninh là địa phương thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và là 1 trong 7 địa phương nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Trong vùng đồng bằng sông Hồng, Quảng Ninh chiếm 29,2% về diện tích (lớn nhất trong vùng) và 5,8% về số dân. Mật độ dân số của tỉnh hiện đạt khoảng 215 người/km2, thấp nhất trong vùng và tương đương 20% mật độ trung bình toàn vùng đồng bằng sông Hồng.
Trong các giai đoạn phát triển gần đây, công nghiệp và xây dựng luôn là ngành có tốc độ tăng trưởng cao hơn nền kinh tế và đóng góp lớn nhất trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Để ngành công nghiệp, dịch vụ tiếp tục phát triển bền vững, tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (nhiệm kỳ 2020 - 2025) đã đề ra mục tiêu đến hết năm 2025, công nghiệp - xây dựng chiếm 49% - 50%; dịch vụ, thuế sản phẩm 46% - 47%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 3% - 5%. Hiện thực hóa mục tiêu đề ra, tỉnh thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó chú trọng phát triển ngành công nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp; tận dụng khai thác thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyên sâu một số ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược, có lợi thế cạnh tranh. Về thương mại, tiếp tục phát huy lợi thế thương mại của tỉnh để phát triển nhanh, bền vững, chuyển đổi hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng chính ngạch phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế; đổi mới mạnh mẽ khoa học và công nghệ, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động công nghiệp - thương mại trên địa bàn tỉnh.
Tỷ trọng ngành công nghiệp CBCT trong cơ cấu tăng trưởng GRDP của kinh tế Quảng Ninh tăng dần qua các năm, năm 2020 chiếm 9,8%, năm 2021 chiếm 11,3%, năm 2022 chiếm 11,5%. Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp CBCT năm 2021 tăng 30,73%, năm 2022 tăng 16,54%; bình quân tăng trưởng năm 2021 - 2022 đạt 23,6%/năm, cao hơn chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra (17%/năm). Quảng Ninh thu hút vốn đầu tư của ngành công nghiệp CBCT năm 2021 - 2022 đạt hơn 41.300 tỷ đồng, đạt trên 80% chỉ tiêu nghị quyết (mục tiêu đề ra là 50.000 tỷ đồng đến năm 2025), trong đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt trên 1,3 tỷ USD.
Cùng với đó, tiếp tục quan tâm đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ; nâng cao chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, hấp dẫn, thông thoáng, giúp giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư. Tỉnh cũng tích cực hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi giá trị; củng cố niềm tin vào thị trường cho người tiêu dùng, doanh nghiệp và nhà đầu tư; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhà đầu tư, doanh nghiệp vào tỉnh; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư, người lao động và người dân...
Tuy nhiên, ngành công nghiệp CBCT tại Quảng Ninh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của địa phương. Đa số dự án có quy mô vốn nhỏ, số dự án có công nghệ tiên tiến, hàm lượng chất xám, giá trị gia tăng cao chiếm tỷ lệ còn ít, chưa phát triển đột phá công nghiệp sạch, công nghệ cao; hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số dự án đầu tư chưa cao, chưa có những doanh nghiệp công nghiệp lớn, thương hiệu mạnh tham gia sâu vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị trong nước cũng như toàn cầu. Công nghiệp CBCT chưa đóng vai trò động lực cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững của tỉnh trong thời gian qua; tỷ trọng đóng góp trong GRDP và thu ngân sách địa phương còn nhỏ. Hiệu quả của khu vực FDI trong công nghiệp CBCT còn thấp, phần lớn là các dự án còn thâm dụng lao động, tiêu hao nhiều năng lượng, giá trị gia tăng thấp.
Nhận thức được những tồn tại trong việc phát triển ngành công nghiệp CBCT, thời gian qua tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều giải pháp quyết liệt trong chỉ đạo, quản lý, kiểm soát chặt chẽ để phát triển hợp lý ngành công nghiệp CBCT qua việc điều chỉnh chính sách về khoa học công nghệ đối với doanh nghiệp công nghiệp, tạo cơ chế hỗ trợ thúc đẩy các doanh nghiệp CBCT đang gặp khó khăn; thu hút những dự án có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, có công nghệ hiện đại, từ đó tạo động lực để kích thích nền công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp hỗ trợ cũng đã cơ bản xây dựng được cơ chế chính sách ưu đãi cụ thể để hình thành và phát triển các cụm công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển công nghiệp cốt lõi tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh; đã tham mưu, đề xuất nhiều chính sách phân bổ nguồn lực đủ lớn để hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao trình độ công nghệ, quản lý đáp ứng chuẩn mực quốc tế; xây dựng các chương trình kết nối kinh doanh, liên kết giữa doanh nghiệp hỗ trợ trên địa bàn với các công ty sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài...
Ở Quảng Ninh, nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã lựa chọn phát triển công nghiệp CBCT làm mũi đột phá trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và 1 trong 3 trụ cột chính trong ngành công nghiệp của tỉnh. Trong đó, tỉnh Quảng Ninh coi đây là chủ trương, quyết sách đúng đắn để tạo bứt phá, lợi thế cạnh tranh cho ngành công nghiệp CBCT phù hợp với sự phát triển trong nước và thế giới. Nghị quyết đã tạo ra sự đột phá, mở ra hướng phát triển toàn diện cho ngành công nghiệp CBCT của tỉnh Quảng Ninh.
Tỉnh Quảng Ninh cũng đã chú trọng phát triển khu công nghiệp theo mô hình “3 trong 1” đó là: Khu công nghiệp - Khu đô thị - Khu dịch vụ với hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại, dịch vụ tiện ích khác biệt tạo môi trường làm việc và môi trường sống văn minh, an toàn, tạo việc làm, tăng thu nhập cho công nhân, người lao động gắn với nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Cùng với những lợi thế sẵn có là hệ thống các cảng biển, dịch vụ logistics, các khu công nghiệp, đường cao tốc Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng, đặc biệt cửa khẩu song phương với Trung Quốc,... đã tạo ra lực đẩy mạnh mẽ để công nghiệp CBCT của tỉnh phát triển.
Thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xanh, Quảng Ninh đã hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tổng thể quy hoạch, thu hút đầu tư có chọn lọc. Tỉnh đã khai thác, tận dụng tối đa tiềm năng, lợi thế phát triển của hành lang kinh tế, hành lang đô thị gắn với hành lang giao thông của 2 tuyến phía Tây và phía Đông của tỉnh đang ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và hiện đại, đã tận dụng tối đa ưu thế của các loại hình giao thông, thị trường; cơ chế, chính sách ưu đãi của các khu công nghiệp, khu kinh tế để nhanh chóng hình thành các cụm liên kết vùng, liên kết ngành công nghiệp CBCT tập trung. Trọng tâm là phát triển và phát huy hiệu quả các khu công nghiệp nằm trong Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, Khu kinh tế Vân Đồn, Khu kinh tế ven biển Quảng Yên...
Tỉnh đã quy hoạch, huy động tối đa mọi nguồn lực theo phương châm “Lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư” đầu tư xây dựng, đẩy nhanh tốc độ phát triền và hoàn thiện hạ tầng đồng bộ, hiện đại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu kinh tế bảo đảm kết nối liên thông, tổng thể gắn với phát triển hạ tầng giao thông chiến lược, công nghệ thông tin, viễn thông, cảng biển và dịch vụ cảng biến của tỉnh. Trong năm 2022 đã hoàn thành đường cao tốc Hạ Long - Móng Cái; đường ven biển Hạ Long - Cẩm Phả; tiếp tục hoàn thiện đường cao tốc ven sông tuyến miền Tây; cầu Cửa Lục 1, 3, cầu Triều và các dự án hạ tầng động lực của thành phố Hạ Long...
Cùng với đó, công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh tiếp tục được quan tâm. Việc giải quyết thủ tục hành chính phục vụ các dự án đầu tư không ngừng được cải thiện theo đúng Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 9-4-2021, của Tỉnh ủy, “Về đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh giai đoạn 2021 - 2025, định hưởng đến năm 2030”. Kết quả, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) Quảng Ninh giữ vị trí quán quân 5 năm liên tiếp (2016 - 2021); Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS) đứng thứ nhất toàn quốc 3 năm liên tiếp (2019 - 2021), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) năm 2021 đứng thứ 2 cả nước. Tỉnh đã chỉ đạo tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho người dân, doanh nghiệp theo phương châm “làm đúng, làm nhanh, làm tốt”, nhất là thủ tục hành chính về đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch, môi trường, giải phóng mặt bằng, vật liệu san lấp; thúc đẩy thu hút đầu tư và sớm đưa các dự án đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát huy hiệu quả sau đầu tư.
Trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kỹ năng gắn với tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng dân số, tỉnh tiếp tục hoàn thiện Đề án Phát triển giáo dục, đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, Đề án Nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục phổ thông giai đoạn 2021 - 2025; Đề án Phát triển nhà ở công nhân, lao động ngành than, khu công nghiệp, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kỹ năng về làm việc, sinh sống tại Quảng Ninh. Tỉnh đã xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại Trường Đại học Hạ Long, Trường Cao đẳng nghề Việt - Hàn và các cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp CBCT gắn với tăng quy mô và chất lượng dân số giai đoạn 2021 - 2025. Chú trọng đào tạo các ngành nghề: điện, điện tử - tin học, cơ khí, tự động hóa, công nghệ cao, công nghệ ô tô..., trong đó, một số ngành nghề đạt trình độ quốc tế, khu vực. Mở rộng các mô hình cơ sở đào tạo, dạy nghề chất lượng cao, tạo dựng chuỗi liên kết lao động sau đào tạo với doanh nghiệp./.