Có một ngày miền mỏ bất khuất
Quảng Ninh là một trong những “cái nôi” ra đời sớm nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công nhân khu mỏ gắn liền với phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh chống lại sự áp lực, bóc lột của thực dân, chủ mỏ Pháp.

Quảng Ninh có nguồn dự trữ than đá lớn, chất lượng tốt; có cảng biển và đường giao lưu quốc tế thuận lợi. Vì thế, các tập đoàn tư bản nước ngoài luôn nhòm ngó và tìm cách chiếm đoạt.
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, sau cuộc đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất (năm 1873), năm 1874, buộc triều Nguyễn phải mở rộng cảng than Hòn Gai cho thương nhân nước ngoài vào buôn bán, mua than.
Năm 1881, người Pháp đã đưa các đoàn kỹ thuật đến khu mỏ Hòn Gai thăm dò, khảo sát địa chất nơi đây và phát hiện than ở vùng mỏ này là một thứ than đặc biệt tốt.
Vào cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai, sau khi đánh chiếm Hà Nội được 8 ngày, ngày 12-3-1883, thực dân Pháp đem 500 quân đánh chiếm Hòn Gai, dựng trại tại Bãi Cháy, bắt đầu thời kỳ chiếm giữ và khai thác khu mỏ.
Năm 1884, người Pháp ép triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patenotre đánh dấu sự đầu hàng, làm khế ước bán mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả cho tư bản Pháp là Bavie Chauffour với giá 10 vạn đồng Đông Dương, trong thời hạn 100 năm.
Ngày 24-4-1888, Công ty mỏ than đầu tiên của người Pháp được thành lập có tên là Công ty mỏ Bắc Kỳ, phạm vi khai thác từ phía Bãi Cháy đến Mông Dương. Kể từ đó dưới thời Pháp, Hòn Gai, Cẩm Phả còn có tên gọi tắt là “vùng đất nhượng” tức thuộc quyền của chủ mỏ, có bộ máy bạo lực riêng. Phu phen khu mỏ chịu sự áp bức, bóc lột của bọn tư bản Pháp.
Có áp bức tất yếu sẽ có đấu tranh. Quá trình khai thác than là quá trình ra đời và phát triển đội ngũ công nhân Quảng Ninh. Có thể nói, Quảng Ninh là nơi có đội ngũ công nhân ra đời sớm nhất, là một trong những “cái nôi” của giai cấp công nhân Việt Nam.
Sống trong khu vực “đất nhượng”, công nhân mỏ chịu sự thống trị của 2 bộ máy bạo lực của chính quyền thực dân và bọn chủ mỏ. Họ bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, ngày làm 10 giờ, có khi phải làm tới 12 giờ, nhưng tiền lương lại rất thấp.
Trong hoàn cảnh lương ít ỏi, giá cả ngày càng cao, công nhân mỏ còn bị chủ thầu, cai, giám thị cúp tiền lương, đánh đập; chứa bạc, mở tiệm hút thuốc phiện; độc quyền bán lương thực, thực phẩm, làm cho công nhân mỏ phải sống kham khổ và rách rưới.
Tình cảnh điêu đứng, cơ cực của người thợ mỏ là lý do cắt nghĩa tại sao các cuộc đấu tranh của họ bắt đầu từ khi họ mới ra đời.
Trước khi có Đảng, các phong trào đấu tranh của công nhân chủ yếu mang tính tự phát, đấu tranh lẻ tẻ, không có tổ chức để giải quyết sự tức giận nhất thời nên đã không giành được lợi ích kinh tế cũng như chính trị, ngược lại còn bị đánh đập, đe dọa đuổi khỏi nhà máy, thậm chí bị giết hại.
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, khu mỏ lần lượt xuất hiện các chi bộ đảng ở mỏ Mạo Khê, Vàng Danh - Uông Bí, Hòn Gai, Cẩm Phả - Cửa Ông. Đến đầu năm 1930, trong hầu hết các nơi tập trung đông công nhân đều có các chi bộ Đảng.
Kể từ khi Đảng ra đời, các phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh nói chung, giai cấp công nhân nói riêng đã có sự lãnh đạo của Đảng nên chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo, đạt được nhiều quyền lợi về kinh tế và chính trị.
Theo cuốn sách “Cuộc tổng bãi công của 3 vạn thợ mỏ Quảng Ninh trong cao trào cách mạng 1936 - 1939” do Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản năm 1986, ngay trong đêm ngày 12-11, Ban lãnh đạo cuộc bãi công tranh thủ lúc chính quyền thực dân và bọn chủ mỏ lơ là, sơ hở, mất cảnh giác đã khẩn trương chuẩn bị những công việc cho cuộc bãi công.
Không khí chuẩn bị bãi công bao trùm cả khu vực Cẩm Phả. Ngay đêm đó, các đội bảo vệ đã thành lập các trạm kiểm soát trên các ngả đường dẫn lên công trường, tầng than để tuyên truyền vận động thợ mỏ tham gia bãi công.
Từ sáng sớm, anh chị em công nhân đi làm đã dựng lại quây quần quanh các tờ áp phích kêu gọi bãi công với nội dung: “Hỡi anh chị em! Hãy tỉnh táo! Đừng mắc mưu khiêu khích! Kỷ luật và đồng tâm! Chúng ta sẽ thắng”.
Để đáp trả yêu sách của người công nhân, chính quyền thực dân đã điều 500 lính lê dương và lính khố xanh từ Hải Phòng về để đàn áp phong trào, uy hiếp công nhân bãi công. Toàn bộ hệ thống cai trị, khủng bố của bọn thực dân ở mỏ cũng được huy động để đối phó với cuộc đấu tranh của thợ mỏ.
Đến ngày thứ 6 của cuộc bãi công, tình hình rất căng thẳng. Mặc dù đã được vay kỳ lương đầu tháng, nhưng mức lương thợ mỏ đa số đều thấp, phần đông công nhân đã hết gạo, hết tiền.
Lợi dụng khó khăn của công nhân, chủ mỏ và chính quyền thực dân bắt các cửa hàng đóng cửa để phá cuộc bãi công. Trước tình hình ấy, ban lãnh đạo cuộc bãi công đã vận động bà con tiểu thương bán gạo cho thợ mỏ, thậm chí là bán chịu.
Đồng bào các dân tộc ít người và bà con ngư dân ở gần khu mỏ cũng mang gạo, ngô, khoai, sắn đến bán để ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân. Sáng ngày 20-11-1936, bộ máy chính quyền của Pháp cùng chủ mỏ buộc phải gặp đại biểu công nhân để đối thoại.
Cùng ngày, chủ mỏ ra thông báo chấp nhận các yêu sách của cuộc bãi công: tăng lương lên 3 hào 1 ngày công; chủ chịu trả một nửa tiền cuốc xẻng; chủ chịu cấp dầu mỡ cho thợ làm xe; thợ vắng mặt không bị cúp, đánh đập.
Cuộc bãi công đã giành được thắng lợi to lớn. Đây là cuộc đấu tranh thể hiện tinh thần bền bỉ, kiên quyết, dũng cảm và có tổ chức kỷ luật chặt chẽ của công nhân khu mỏ.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh của công nhân mỏ Cẩm Phả gây được sự phấn khởi và niềm tin vào sức mạnh đoàn kết đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động toàn khu mỏ. Nó châm ngòi cho công nhân các khu vực lân cận đứng lên đấu tranh.
Trong khi chủ mỏ vẫn còn bàng hoàng trước cuộc đấu tranh kiên cường của 1 vạn thợ mỏ Cẩm Phả, sáng ngày 23-11-1936, công nhân Nhà máy Cơ khí Hòn Gai phát động bãi công đòi những quyền lợi về kinh tế và chính trị.
Ban lãnh đạo cuộc bãi công đã huy động hàng nghìn công nhân các mỏ Hà Lầm, Hà Tu, Nhà máy điện Cột 5. Phong trào nhanh chóng lan tới Cửa Ông, Cái Đá, Đồng Đăng, Kế Bào… Tính đến ngày 28-11-1936, phong trào đã trở thành cuộc tổng bãi công, thu hút sự tham gia 3 vạn thợ mỏ tham gia.
Thắng lợi của cuộc tổng bãi công không phải chỉ ở chỗ đạt được những mục tiêu kinh tế, mà còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc như một tờ báo của Pháp đã nhận định: “lần đầu tiên ở Đông Dương, giai cấp vô sản đã giành được thắng lợi rực rỡ. Lần đầu tiên kỷ luật vô sản đã thắng sự kháng cự của bọn chủ… ”.
Hằng năm, ngày 12-11 đã trở thành ngày hội truyền thống công nhân vùng mỏ và câu khẩu hiệu của người công nhân “Kỷ luật và Đồng tâm” cũng xuất phát từ nội dung cuộc đấu tranh năm 1936.
Ngày 12-11 đã trở thành ngày hội lớn của những người thợ mỏ và nhân dân Quảng Ninh. Người Quảng Ninh vẫn gọi ngày 12-11 hằng năm là ngày miền mỏ bất khuất.
Ngày nay, truyền thống “Kỷ luật và Đồng tâm” ra đời trong ngày miền mỏ bất khuất vẫn là di sản, là hành trang tinh thần quý giá, tạo động lực cho công nhân mỏ nỗ lực vươn lên góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế thế giới./.