12/05/2025 | 09:47 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Tư duy chấp nhận rủi ro hợp lý trong đầu tư phát triển công nghệ cao ở Việt Nam

Nguyễn Thường Lạng
PGS, TS, Đại học Kinh tế quốc dân
Tư duy chấp nhận rủi ro hợp lý trong đầu tư phát triển công nghệ cao ở Việt Nam Tàu metro số 1 (tuyến Bến Thành - Suối Tiên) dừng ở ga Bình Thái, thành phố Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh)_Ảnh: TL
Phát triển công nghệ cao cần vốn đầu tư lớn, nhân lực trình độ cao, quy trình đầu tư khoa học và tạo lợi ích to lớn nhưng rủi ro cũng rất cao, gây thiệt hại lợi ích. Việt Nam đang triển khai chiến lược phát triển công nghệ cao nên cần tư duy chấp nhận rủi ro hợp lý để tạo khả năng làm chủ công nghệ cao.

Rủi ro gây thiệt hại lợi ích

Nhận thức rủi ro đánh giá thông qua các loại thiệt hại do rủi ro gây ra. Các loại thiệt hại cần được bù đắp hiệu quả, như hỗ trợ nhà nước hoặc bảo hiểm. Nếu không có các khoản bù đắp này, nhà đầu tư phải chịu mọi thiệt hại.

Khi xác suất rủi ro cao, nhà đầu tư có thể chấm dứt đầu tư. Tuy nhiên, nếu thành công, lợi ích thu được sẽ rất lớn. Điều này đòi hỏi nhà đầu tư phải chấp nhận đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng theo nguyên tắc “rủi ro càng cao, lợi nhuận càng lớn”.

Chấp nhận rủi ro là tố chất của nhà kinh doanh hiện đại được trường phái kinh doanh hàng đầu thế giới Harvard (Mỹ) đề cao, phát triển thành văn hóa chấp nhận rủi ro. 

Tư duy này phù hợp với cơ chế thị trường vì tính bất định rất cao trên cơ sở tương tác cung - cầu liên tục, cạnh tranh tổng hợp và đổi mới sáng tạo không giới hạn. 

Tư duy chấp nhận rủi ro vận động linh hoạt, nhiều hướng và luôn tìm kiếm sự đổi mới sáng tạo để phát triển đột phá. Điều này khác với tư duy mệnh lệnh - tất cả yếu tố đầu vào và đầu ra đều được duy trì ổn định, không có tính chu kỳ, không có khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp. 

Tất cả mọi hành vi kinh tế “nhất cử nhất động” đều được chỉ đạo thống nhất từ nhà nước thông qua kế hoạch hóa kinh tế quốc dân.

Đầu tư công nghệ cao rủi ro rất cao để thu lợi nhuận khổng lồ

Công nghệ cao có đặc điểm phức tạp trong nghiên cứu, ứng dụng và giải mã, ít được phổ biến rộng rãi và muốn nắm bắt triệt để, cần có các điều kiện ràng buộc, như kết cấu hạ tầng phát triển cao, nhân lực có trình độ chuyên sâu và bảo đảm tạo ra sản phẩm độc đáo và khác biệt. 

Công nghệ cao thường được sở hữu bởi rất ít chủ thể, được bảo hộ chặt chẽ, cho nên tính chất độc quyền hoặc độc quyền nhóm khá cao, theo đó, lợi nhuận thu được khá lớn thậm chí lợi nhuận độc quyền cao.

Quá trình khởi nghiệp công nghệ cao thường rủi ro cao, do gặp phải trạng thái “thung lũng chết” và theo thống kê của các trung tâm khởi nghiệp hàng đầu thế giới, khoảng 90% số dự án khởi nghiệp thất bại. Điều này minh chứng đầu tư công nghệ cao phải đối mặt với rủi ro không nhỏ.

Các khoản đầu tư cho công nghệ cao khá lớn, trong đó có một tỷ lệ nhất định được sử dụng để bù đắp thiệt hại rủi ro do quá trình nghiên cứu không đạt kết quả mong đợi. 

Thực tế cho thấy, có trường hợp công ty, tập đoàn vì đầu tư đáng kể nguồn lực vào nghiên cứu và phát triển nhưng không đạt kết quả được thương mại hóa, không thu hồi vốn đủ để bù đắp chi phí phải thu hẹp quy mô, thậm chí đóng cửa, phá sản. 

Ngược lại, nếu thành công, lợi ích thu được rất cao hay phần thưởng cao từ đầu tư công nghệ cao. Khía cạnh này cho thấy, đầu tư công nghệ cao thành công vượt qua điểm hòa vốn sẽ sáng tạo lượng giá trị thị trường khổng lồ. 

Các tập đoàn công nghệ đầu tư thành công vào phát triển công nghệ cao đều có lợi nhuận rất cao, quy mô vốn hóa càng ngày càng lớn và thường xuyên dẫn đầu danh sách các tập đoàn lớn nhất thế giới về quy mô vốn hóa thị trường. 

Năm 2024, trong 10 công ty quy mô vốn hóa thị trường lớn nhất thế giới có 6 công ty công nghệ, như Apple 3.387,02 tỷ USD, Microsoft 3.043,38 tỷ USD, Nvidia 2.649,24 tỷ USD...

Việt Nam hướng tới tư duy chấp nhận rủi ro

Có thể thấy văn hóa chấp nhận rủi ro trong đổi mới, sáng tạo của Việt Nam theo các khía cạnh độ cao hay khoảng cách quyền lực, tính cá nhân, khát vọng chinh phục đỉnh cao (kỳ vọng), mức độ chấp nhận rủi ro và tầm nhìn xa, trông rộng khi so sánh với các khía cạnh này của văn hóa đổi mới sáng tạo của Mỹ. 

Kết quả cho thấy, khoảng cách quyền lực của Việt Nam (70 điểm), cao hơn của Mỹ (40 điểm) trong thang điểm 100 được Hofstede khảo sát công bố. Đây là bằng chứng cho thấy phần nào để phê duyệt một đề tài nghiên cứu ở Việt Nam phải trình nhiều cấp hơn, theo đó, làm tăng chi phí và gây chậm tiến độ nghiên cứu. 

Điều này không loại trừ khả năng làm giảm chất lượng nghiên cứu vì lực lượng nghiên cứu dồn nỗ lực để bảo đảm tiến độ ở giai đoạn nước rút cũng như do quá tập trung xử lý thủ tục thay vì cố gắng bảo đảm chất lượng đề tài cao nhất.

Ở khía cạnh tính cá nhân, Mỹ có 60 điểm cao gấp đôi (30 điểm) của Việt Nam. Tính sáng tạo bắt nguồn tư tính cá nhân. Tính cá nhân càng cao, mức độ sáng tạo càng lớn và sản phẩm ra đời càng nhanh theo phương châm “muốn đi nhanh thì đi một mình”. 

Khía cạnh này được chứng minh bằng thực tế số lượng tiến bộ công nghệ cao Mỹ đạt được cao hơn hàng chục lần, thậm chí hàng trăm lần Việt Nam, trong khi dân số Mỹ chỉ lớn hơn Việt Nam 3,3 lần.

Ở khía cạnh kỳ vọng, Mỹ có 80 điểm, còn Việt Nam chỉ 40 điểm. Đầu tư nghiên cứu và phát triển của Mỹ rất lớn cả về tài chính, nhân lực và thể chế để phù hợp với kỳ vọng này. 

Bảng 1 cho thấy trong 10 công ty có quy mô vốn hóa lớn nhất thế giới, Mỹ có 8 công ty. Để làm chủ công nghệ cao nhằm có quy mô vốn hóa lớn, cần có khát vọng làm chủ công nghệ cao.

Ở khía cạnh chấp nhận rủi ro, Mỹ có điểm số 48 cao hơn điểm số 30 của Việt Nam. Mỹ có mức độ chấp nhận rủi ro khá cao cho nên sẵn sàng tham gia nghiên cứu và phát triển công nghệ cao. Nhiều công nghệ cốt lõi, công nghệ chiến lược được Mỹ làm chủ nhờ có văn hóa chấp nhận rủi ro này.

Ở khía cạnh tầm nhìn, Mỹ có điểm số 50 cao hơn không nhiều so với 47 điểm của Việt Nam. Các công ty Mỹ đã đầu tư lâu dài vào các ngành công nghiệp cơ bản, công nghệ lõi, luôn ở vị thế độc quyền duy nhất hoặc độc quyền nhóm cho nên lợi nhuận thu được quy mô lớn và tốc độ tích lũy rất cao. 

Tầm nhìn xa, trông rộng đòi hỏi tính kiên trì, bền bỉ cũng như quan điểm lạc quan về thành công như mong đợi trong tương lai và sự sáng tạo trong phương pháp.

Các đặc điểm trên đây khẳng định Việt Nam cần xây dựng văn hóa chấp nhận rủi ro trong đổi mới, sáng tạo từ đối sánh các khía cạnh với văn hóa Mỹ.

 Trải qua gần 40 năm đổi mới, nhiều chính sách, quy định về phát triển khoa học - công nghệ được ban hành, như Luật Công nghệ cao. Đột phá khoa học - công nghệ được xác định là 1 trong 3 đột phá chiến lược kể từ năm 2011, nhưng nền khoa học - công nghệ vẫn chưa phát triển như mong đợi. Chi nghiên cứu và phát triển ở mức thấp, khoảng 0,5% GDP, chưa định hình tư duy chấp nhận rủi ro trong phát triển công nghệ cao.

Từ cuối năm 2024, Việt Nam có Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Nghị quyết nhấn mạnh tăng đầu tư nghiên cứu và phát triển lên 2% GDP, khuyến khích huy động nguồn lực xã hội hóa và chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu công nghệ cao. 

Nghị quyết mở đường phát triển khoa học - công nghệ giai đoạn vươn mình trở thành nước thu nhập trung bình cao năm 2030 và nước công nghiệp, thu nhập cao năm 2045.

Một số hàm ý về nhận thức và hành động

Một là, nhận thức sâu sắc đầu tư phát triển công nghệ cao có rủi ro cao cho nên cần có chiến lược đầu tư hiệu quả và mô hình quản trị rủi ro phù hợp.

Hai là, xác định mức độ thành công cụ thể của chương trình, dự án nghiên cứu và phát triển ở các cấp, ngành, địa phương, cơ sở, doanh nghiệp để phân bổ nguồn lực, xác định tiến độ, triển khai nghiên cứu, đánh giá, cơ chế nghiệm thu và ứng dụng hợp lý, thậm chí cơ chế thương mại hóa để thu lợi ích từ kết quả nghiên cứu. 

Những chương trình, dự án nghiên cứu và phát triển tuân thủ đúng quy định pháp luật, có quy trình nghiên cứu chặt chẽ, khoa học nhưng không đạt kết quả mong đợi cũng phải được thông qua, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận thiệt hại về tài chính và nhân lực. 

Thất bại cần được coi là chỗ dựa để có thành công tiếp theo, theo đó, đội ngũ nghiên cứu tự tin và lạc quan, kiên nhẫn nghiên cứu và phát triển công nghệ cao đạt đến thành công mong đợi.

Ba là, coi trọng xây dựng nguồn nhân lực khoa học đầu ngành từng lĩnh vực công nghệ cao, như vật liệu mới, năng lượng mới, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, thành lập và phát triển các nhóm nghiên cứu xuất sắc và/hoặc nhóm nghiên cứu mạnh từng lĩnh vực chuyên sâu, đào tạo nguồn nhân lực đủ năng lực tiếp cận và phát triển công nghệ cao gắn với cơ chế đãi ngộ thỏa đáng. 

Cần có cơ chế chuyển nhượng sản phẩm nghiên cứu dở dang, sản phẩm trung gian và sản phẩm thành công để thúc đẩy phát triển thị trường khoa học - công nghệ cao./.