20/09/2024 | 18:58 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Một số bài học về xây dựng Đảng trong những năm đổi mới

PHAN ĐĂNG PHÚ
(Tạp chí Cộng sản, số 12-1996)
Một số bài học về xây dựng Đảng trong những năm đổi mới

Mười năm qua, trong hoàn cảnh đất nước có muôn vàn khó khăn, thế giới có những diễn biến hết sức phức tạp, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trong tình thế khó khăn có lúc đến mức hiểm nghèo tưởng chừng không vượt qua nổi, Việt Nam chẳng những đứng vững mà còn vươn lên, tiến hành đổi mới có kết quả, kinh tế có bước phát triển, chính trị ổn định, đối ngoại mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thành tựu đó rõ ràng là to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng. Nó chứng tỏ Đảng ta có khả năng lãnh đạo phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ đất nước ngay cả trong những tình huống phức tạp nhất.

Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta một lần nữa thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ, phẩm chất cách mạng và phong cách khoa học của mình; đồng thời cũng bộc lộ một số nhược điểm và khuyết điểm. Sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới; đồng thời chính trong quá trình lãnh đạo đổi mới mà Đảng ngày càng trưởng thành, nhận rõ hơn những yếu kém của mình để có biện pháp khắc phục và tiếp tục tiến lên.

Từ thực tiễn hoạt động phong phú và sôi động của Đảng ta, nhân dân ta trong 10 năm qua, cả thắng lợi, thành tựu và những thiếu sót khuyết điểm, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm gì về xây dựng Đảng để tiếp tục chỉ đạo công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới? Dựa vào kết quả nghiên cứu tổng kết của Tiểu ban tổng kết xây dựng Đảng, có thể rút ra mấy vấn đề sau đây:

1 - Trong quá trình đổi mới, Đảng luôn luôn nắm chắc vai trò lãnh đạo, đồng thời tích cực tự đổi mới, tự chỉnh đốn một cách có hiệu quả.

Với bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng ta đã tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm bắt và tổng kết được những hoạt động thực tiễn sáng tạo của quần chúng, kịp thời đề ra chủ trương đổi mới đúng đắn, khơi dậy và phát huy tiềm năng to lớn của nhân dân.

Thực tế cho thấy, muốn tiến hành đổi mới thành công, trước hết phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng, coi đây là vấn đề nguyên tắc. Bởi vì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố bảo đảm sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không thể có độc lập dân tộc vững chắc, không có quyền làm chủ thật sự của nhân dân, không có nhà nước của dân, do dân, vì dân, và càng không có chủ nghĩa xã hội. Lúc bình thường vai trò lãnh đạo của Đảng đã rất quan trọng, những bước chuyển giai đoạn thì vai trò đó càng đặc biệt quan trọng.

Không phải ngẫu nhiên mà suốt mấy chục năm qua, nhất là mấy năm gần đây, các thế lực chống cộng không ngừng tiến công vào Đảng Cộng sản, cổ vũ cho con đường phát triển kinh tế thị trường tự do, “tư nhân hóa”, “đa nguyên đa đảng”, tìm mọi cách để thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng và xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.

Trước những yêu cầu nhiệm vụ mới rất phức tạp, trước những đòn tiến công phá hoại của các thế lực thù địch, chúng ta càng không được chập chờn, dao động về vấn đề này. Trái lại, phải hết sức kiên định, củng cố và nâng cao những nhận thức đúng đắn, uốn nắn những lệch lạc, đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái. Ngay từ cuối năm 1988 đầu năm 1989 (lúc đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu chưa sụp đổ), với sự nhạy bén chính trị đặc biệt, Đảng ta đã đề ra 6 nguyên tắc đổi mới, trong đó có nguyên tắc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, và khẳng định dứt khoát chúng ta không chấp nhận “đa nguyên đa đảng”. Sự lãnh đạo của Đảng là một đòi hỏi khách quan và xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, là sứ mạng thiêng liêng do nhân dân và dân tộc giao phó, là thành quả to lớn của cách mạng, là nhân tố bảo đảm ổn định chính trị, tạo sức mạnh thống nhất để đưa đất nước đi lên. Vì vậy không có lý do gì để chấp nhận “đa nguyên đa đảng”.

Đương nhiên, để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng đúng đắn và có hiệu quả, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh về mọi mặt. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, lại hoạt động trong điều kiện mới hết sức phức tạp, Đảng ta ý thức sâu sắc về sự đổi mới, chỉnh đốn đảng. 

Ngay từ Đại hội VI, Đảng đã đề ra chủ trương phải đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới phong cách công tác. Đến Hội nghị Trung ương sáu (tháng 3-1989), Đảng tiếp tục chỉ rõ phải đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đại hội VII (tháng 6-1991), đề ra chủ trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Hội nghị Trung ương ba (tháng 6-1992) đã cụ thể hóa chủ trương đó và nhấn mạnh: lúc này xây dựng kinh tế là trung tâm và xây dựng Đảng là then chốt. Chỉ có chăm lo đầy đủ công tác xây dựng đảng, thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn đảng mới nâng cao được sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới và con đường đi lên đúng đắn của dân tộc.

Trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn, Đảng chú trọng giữ vững định hướng và chống xa rời nguyên tắc; kiên định và phát triển sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Chống các khuynh hướng: bảo thủ, dao động, cơ hội, cực đoan. Đổi mới nhưng không phủ nhận thành tựu của quá khứ; không dao động trên những vấn đề nguyên tắc; không lẫn lộn những vấn đề chiến lược và sách lược. Mặt khác, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc nhưng đổi mới sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam.

Đổi mới và chỉnh đốn đảng là nhằm xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo đảm thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ chính trị, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ vững ổn định chính trị, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, nó phải gắn với đổi mới các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, trước hết là với quá trình thực hiện và hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý, với kiện toàn hệ thống chính trị, với phong trào hành động cách mạng của quần chúng, khơi dậy và phát huy trí sáng tạo của nhân dân.

Xây dựng đảng là vấn đề xây dựng tổ chức, xây dựng con người, rất nhạy cảm về chính trị, cho nên không thể nôn nóng, giản đơn. Phải tiến hành tích cực, không né tránh, đồng thời có bước đi và phương pháp thích hợp; hết sức chú trọng tự phê bình và phê bình, đồng thời vận động, tổ chức để quần chúng tham gia xây dựng đảng.

2 - Giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng.

Từ trước đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vấn đề tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng. Bởi vì đây chẳng những là vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc đối với tất cả các đảng mác xít lê nin nít chân chính, mà còn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của Đảng ta - một đảng ra đời và trưởng thành ở một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân còn rất thấp. Hiện nay Đảng ta lại đang hoạt động trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa giao lưu quốc tế, môi trường xã hội rất phức tạp, bên cạnh mặt thuận lợi và thời cơ, Đảng đang đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức. Vấn đề giữ cho Đảng không biến chất, trước sau đều mang bản chất của giai cấp công nhân, là vấn đề hết sức quan trọng và quyết định.

Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trước hết là phải kiên định quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; phấn đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dù tình hình thế giới và trong nước khó khăn, phức tạp đến đâu, Đảng phải luôn luôn vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng đó.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Trong tình hình hiện nay, phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể nước ta để hoàn chỉnh cương lĩnh, đường lối; và từ thực tiễn mà tổng kết, khái quát, bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm học thuyết cách mạng và khoa học đó. Thực tế lúc nào máy móc rập khuôn, không giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo là lúc đó chúng ta gặp khó khăn.

Bản chất giai cấp công nhân đòi hỏi Đảng phải được tổ chức chặt chẽ và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái, buông lỏng kỷ luật đều trái với bản chất giai cấp công nhân của Đảng.

Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân và dân tộc, lãnh đạo xây dựng và làm nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân. Bản chất giai cấp công nhân không tương dung với chủ nghĩa phường hội, cục bộ, bản vị, phân tán. Trái lại, nó đòi hỏi phải có tư tưởng thống nhất, hành động thống nhất, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân và tập thể, bộ phận và toàn cục.

Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa của nhân loại.

Như vậy, bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện trước hết ở thế giới quan, lập trường, quan điểm, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức,... của giai cấp công nhân

Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta, tính giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính nhân dân và tính dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích dân tộc. Đảng chẳng những giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân, mà còn tiếp thu, phát triển tinh hoa và truyền thống dân tộc, giữ vững và phát huy bản sắc Việt Nam. Sức mạnh của Đảng được tăng cường nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp công nhân với khí phách, tinh hoa truyền thống dân tộc.

Là người lãnh đạo, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, đồng thời là lãnh tụ chính trị của cả dân tộc, hơn ai hết Đảng phải có trí tuệ cao, có tính tiên phong.

Trí tuệ tiên phong thể hiện trước hết và tập trung ở việc xây dựng cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Vừa qua, Đảng ta đề ra và tổ chức thực hiện có kết quả đường lối đổi mới là do Đảng đã kế thừa và phát huy được những truyền thống quý báu của Đảng và dân tộc, đổi mới tư duy một cách đúng đắn, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý lý luận, tổng kết thực tiễn, mở rộng dân chủ, phát huy được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, nắm bắt được những vấn đề nảy sinh từ cuộc sống.

Trong khi kiên định mục tiêu lý tưởng, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, Đảng ta đồng thời nhấn mạnh phải có ý thức sáng tạo, dám từ bỏ những cái cũ không còn thích hợp, cả trên lĩnh vực kinh tế cũng như trên lĩnh vực xã hội, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, tập trung sức cho công cuộc xây dựng đất nước. Nói cách khác, Đảng ta đã nắm vững nguyên tắc và phương pháp biện chứng duy vật, không từ cực này nhảy sang cực kia.

3 - Kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ, chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Chuyển sang thực hiện cơ chế mới, Đảng ta kịp thời có những chủ trương đúng đắn về xây dựng và củng cố hệ thống tổ chức của Đảng, của nhà nước, đoàn thể, cùng các tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh. Hướng kiện toàn tổ chức là gọn nhẹ, năng động, đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường, không gò bó, cứng nhắc, đồng thời giữ đúng nguyên tắc, chặt chẽ, bảo đảm sự lãnh đạo thông suốt. 

Đặc biệt, Đảng khẳng định và có biện pháp chấn chỉnh việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, uốn nắn những lệch lạc về cả hai phía: tập trung quan liêu hoặc dân chủ cực đoan. Đảng ta cho rằng, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố quyết định bảo đảm cho sức mạnh thống nhất của Đảng. Hiện nay, hơn lúc nào hết, càng phải bảo vệ, phát triển và làm phong phú thêm nội dung, phương thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. 

Nhận thức đúng và thống nhất nội dung, bản chất của tập trung dân chủ, mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ; đồng thời cụ thể hóa, thể chế hóa thành các quy chế, quy định, quy trình cụ thể, nhất là trong việc dân chủ thảo luận ra quyết định và trong công tác cán bộ. Dân chủ là cơ sở của tập trung, phải phát huy mạnh mẽ dân chủ trongĐảng; đồng thời dân chủ phải có lãnh đạo, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương.

Đoàn kết thống nhất là một truyền thống quý báu của Đảng ta, và là một nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng nước ta. Thực tế ở những bước ngoặt của cách mạng, trong những lúc khó khăn, nguy hiểm, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo cao nhất, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng phải được xây dựng trên cơ sở đường lối chính trị đúng đắn, tình cảm cách mạng trong sáng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; đồng thời thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, thực hiện chính sách cán bộ một cách nhất quán, công bằng.

Không nên đồng nhất việc trong Đảng có những ý kiến khác nhau khi thảo luận, tranh luận với tình trạng mất đoàn kết. Trước sự phát triển của cách mạng, có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất phức tạp, chưa sáng tỏ, trong Đảng cần có thảo luận, tranh luận. Đây là sinh hoạt bình thường và lành mạnh trong Đảng, phản ánh bước trưởng thành của Đảng. Nếu mọi cán bộ, đảng viên đều nghiêm túc chấp hành nghị quyết của tổ chức, đồng thời biết lắng nghe tôn trọng ý kiến của nhau, có việc phải chờ đợi nhau, giải quyết có lý có tình, không vội vàng quy chụp, thì sẽ giữ gìn được sự đoàn kết.

Kinh nghiệm ở nhiều nơi cho thấy, muốn khắc phục được tình trạng mất đoàn kết phải phân tích đúng nguyên nhân và có biện pháp giải quyết phù hợp. Đặc biệt cần: nắm vững và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; có quy chế công tác rõ ràng, chặt chẽ (nhất là về công tác cán bộ); thường xuyên tự phê bình và phê bình; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng kèn cựa địa vị, tranh giành ngôi thứ, lợi lộc, cũng như đầu óc cục bộ, bản vị; bố trí đúng cán bộ chủ chốt, đặc biệt là người đứng đầu tổ chức đảng và cơ quan chính quyền cùng cấp; xây dựng tình thương yêu đồng chí, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích chung, và khi đã xảy ra mất đoàn kết thì phải phát hiện sớm, tập trung giải quyết, xử lý kịp thời.

4 - Thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực gánh vác nhiệm vụ cách mạng.

Thực tiễn 10 năm qua càng chứng minh sâu sắc chân lý: cán bộ đóng vai trò quyết định; công tác cán bộ là công tác đặc biệt quan trọng nhưng cũng rất phức tạp, khó khăn. Cả thành tựu và thiếu sót đều phản ánh chất lượng của đội ngũ cán bộ. Là đảng cầm quyền, trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng càng phải đặc biệt chăm lo công tác cán bộ; chăm lo cán bộ cho cả hệ thống chính trị, cho toàn xã hội, trên tất cả các lĩnh vực.

Trong công tác cán bộ, Đảng ta coi trọng xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ cấp chiến lược vĩ mô và cấp cơ sở. Đổi mới cả quan niệm và phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng dân chủ, tập thể kết hợp với tập trung thông nhất theo một quy trình chặt chẽ.

Trên cơ sở nắm vững quan điểm giai cấp, có chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ ở tất cả các thành phần kinh tế, trọng dụng mọi nhân tài của đất nước. Thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đồng thời kết hợp tốt ba độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa và phát triển trong đội ngũ cán bộ. Biết khai thác mặt mạnh của mỗi loại cán bộ để bổ sung cho nhau.

Đào tạo bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về phẩm chất, trình độ và năng lực; cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp và các chuyên gia, trước hết là các cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị. Trong tình hình hiện nay, phải coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc, tài có ý nghĩa quan trọng. Mọi cán bộ phải thường xuyên rèn luyện, trau dồi phẩm chất cách mạng, gương mẫu trong đạo đức và lối sống, kết hợp hài hòa giữa lợi ích riêng và lợi ích chung; khi lợi ích riêng mâu thuẫn với lợi ích chung thì phải biết đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Chính đây là cái tạo nên uy tín của cán bộ, tạo nên uy tín của Đảng. Vừa qua, có tổ chức đảng hoặc cán bộ, đảng viên không được quần chúng tín nhiệm, phần nhiều là do không chỉ đạo thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị của đơn vị, cán bộ không gương mẫu, phẩm chất sa sút.

Trong điều kiện hòa bình xây dựng, lo làm ăn kinh tế, quan hệ trực tiếp với người nước ngoài, nhiều cán bộ tiếp xúc với tiền, với hàng, rất dễ bị lợi ích vật chất, tiền tài quyến rũ. Kẻ địch thực hiện “âm mưu diễn biến hòa bình”, mua chuộc, lôi kéo, khống chế cán bộ, hòng phá rã ta từ bên trong, từ chính đội ngũ cán bộ hoặc con em cán bộ. Vì vậy, phải đề cao cảnh giác, có biện pháp tích cực và chủ động bảo vệ cán bộ. Các cấp ủy và tổ chức đảng cần phát huy sức chiến đấu của mình, chủ động làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý cán bộ.

5 - Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, bảo vệ lợi ích thiết thực và quyền làm chủ của nhân dân.

Những năm đổi mới vừa qua sở dĩ chúng ta củng cố được niềm tin của nhân dân, tăng cường được mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân chính là nhờ Đảng ta đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát huy dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, với các phong trào “xóa đói giảm nghèo”, “đền ơn đáp nghĩa”, phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”,... 

Đảng đã khơi dậy được các tiềm năng, tạo ra được những nguồn sinh lực mới của cách mạng. Thực tế cho thấy, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thường xuyên chăm lo cho lợi ích của dân, thì ở đó Đảng và dân có mối quan hệ tốt đẹp, cán bộ đảng viên được dân tin, dân phục, dân theo. Trái lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ đảng viên xa dân, quay lưng lại với dân, quan liêu, thậm chí trù dập, ức hiếp dân thì ở đó sẽ bị dân oán ghét, chê trách.

Hiện nay, trước yêu cầu mới của cách mạng, trước những âm mưu của các thế lực thù địch tìm mọi cách để lôi kéo, kích động, chia rẽ Đảng với dân, tách dân ra khỏi ảnh hưởng của Đảng, yêu cầu củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với dân càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.

Mỗi tổ chức đảng và đảng viên có nhận thức sâu sắc vấn đề này để có nhiều biện pháp tích cực, thiết thực thì mới tăng cường được mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó nòng cốt là khối liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức. Đặc biệt chú ý việc định ra chủ trương, chính sách hợp lòng dân, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; phát huy quyền làm chủ thực sự của dân, tạo động lực phát triển xã hội. 

Đấu tranh có kết quả chống quan liêu, tham nhũng, ức hiếp quần chúng; xây dựng và củng cố các cơ quan nhà nước trong sạch vững mạnh; đổi mới phương thức hoạt động của các đoàn thể, chỉnh đốn đội ngũ và tổ chức của Đảng, làm cho tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên thực sự gương mẫu, tiên phong, xứng đáng với niềm tin cậy của quần chúng. Có cơ chế để dân giám sát và kiểm tra các hoạt động của Đảng, của cán bộ, đảng viên (như đề cao vai trò trách nhiệm của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân). Đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng đối với toàn xã hội.

Quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, các cấp ủy đảng cần động viên, tổ chức và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thường xuyên tham gia xây dựng Đảng. Khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” cần được cụ thể hóa, thể chế hóa để thực hiện có hiệu quả. Có kế hoạch thông tin và tổ chức để nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng các nghị quyết, chủ trương công tác của Đảng; giám sát phê bình cán bộ đảng viên; giới thiệu những người xứng đáng để bầu vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng; giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn để kết nạp vào đội ngũ của Đảng; giúp tổ chức đảng làm tốt công tác kiểm tra, phát hiện đấu tranh với những hành vi tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn tiêu cực khác, v.v...

6 - Đổi mới phương thức lãnh đạo và hoạt động của Đảng, coi đây cũng là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng.

Từ cơ chế cũ chuyển sang cơ chế mới đặt ra rất nhiều vấn đề về phương thức lãnh đạo và phong cách công tác, đặc biệt là xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng và Nhà nước, coi đây là vấn đề mấu chốt trong đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị.

Thuật ngữ “hệ thống chính trị” và “phương thức lãnh đạo” được chính thức đưa vào các văn kiện của Đảng từ cuối những năm 80 và được dùng phổ biến trong những năm gần đây.

Đảng ta xác định rằng, trong giai đoạn hiện nay, Đảng phải đặc biệt chăm lo xây, dựng nhà nước mạnh - một nhà nước thể hiện tập trung quyền làm chủ của nhân dân và là công cụ xây dựng, bảo vệ và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có chính quyền nhà nước, Đảng có điều kiện cực kỳ quan trọng để tổ chức thực hiện đường lối, cương lĩnh của mình. Vì vậy, Đảng đã lãnh đạo xây dựng hiến pháp mới và kiện toàn bộ máy nhà nước theo hướng thật sự dân chủ, kỷ cương, hiệu lực. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho Nhà nước thật sự là của dân, do dân và vì dân, theo đúng đường lối đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tạo điều kiện để Nhà nước hoàn thành tốt nhất mọi nhiệm vụ.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cho Đảng làm đúng chức năng lãnh đạo, phát huy mạnh mẽ vai trò của cơ quan chính quyền, các tổ chức kinh tế và các đoàn thể. Các cấp ủy đảng không bao biện làm thay công việc thuộc chức năng quản lý, điều hành của chính quyền, Đảng lãnh đạo không phải là Đảng thay thế Nhà nước quản lý điều hành các công việc nhà nước hoặc thay thế nhân dân làm chủ nhà nước, mà là để khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, giác ngộ và tổ chức nhân dân xây dựng nhà nước của mình, và dùng nhà nước đó để xây dựng xã hội. Cả Đảng, cả Nhà nước đều có trách nhiệm bảo đảm và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đều phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, theo chức năng và phương thức riêng của mình. Không được tách rời hoặc đối lập Đảng với Nhà nước, cũng như không đồng nhất tổ chức đảng với bộ máy nhà nước.

Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo mọi mặt phát triển của đất nước và chịu trách nhiệm trước toàn xã hội. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc xác định phương hướng, mục tiêu, con đường, giải pháp đi lên của đất nước, sự hưng thịnh của dân tộc. Từ đó lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra; lãnh đạo thể chế hóa, luật pháp hóa các nghị quyết của Đảng; thiết kế tổ chức bộ máy; đào tạo, bố trí cán bộ, quản lý và rèn luyện cán bộ; kiểm tra thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng; tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận cách mạng, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách... Tất cả đều nhằm bảo đảm định hướng chính trị đúng đắn trên con đường đi lên của đất nước và sự phát triển của dân tộc.

Đảng lãnh đạo Nhà nước không chỉ bằng đường lối, mà bằng cả tổ chức; lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên; kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc. Đảng lãnh đạo cụ thể, sát sao, theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Bản thân tổ chức đảng cũng cần đổi mới cách sinh hoạt theo hướng dân chủ, kỷ cương, năng động, hiệu quả hơn. Khắc phục lối sinh hoạt nghèo nàn, hình thức.

Để những quan điểm, nguyên tắc nêu trên được quán triệt và thực hiện có kết quả trong thực tế cuộc sống, điều quan trọng là phải cụ thể hóa, thể chế hóa thành các quy chế, quy trình, luật pháp và có biện pháp kiểm tra chặt chẽ, kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm./.