Kinh tế tư nhân
Tuy nhiên, tại nhiều quốc gia, khu vực tạo nên xương sống của nền kinh tế này lại không có khả năng tiếp cận những nguồn lực cần thiết. Môi trường kinh tế vĩ mô và pháp lý yếu kém, tình trạng tắc nghẽn cơ sở hạ tầng, tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề và bất ổn chính trị,... cũng làm suy giảm khả năng đóng góp của kinh tế tư nhân vào tiến trình phát triển. Việc tạo lập những điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân là một đòi hỏi cấp thiết, được xem là “chìa khóa” của đổi mới, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, có tiềm năng mạnh mẽ trong việc chấm dứt tình trạng đói nghèo, thúc đẩy thịnh vượng chung...
I. KINH TẾ TƯ NHÂN - MỘT SỐ NHẬN THỨC CƠ BẢN
Kinh tế tư nhân là gì?
Theo các nhà kinh tế học, kinh tế tư nhân (hay khu vực tư nhân) là thành phần kinh tế thuộc cơ cấu kinh tế của một quốc gia, được hình thành và phát triển dựa trên sự sở hữu của tư nhân về tư liệu sản xuất.
Đối tượng sở hữu kinh tế tư nhân có thể là các cá nhân hoặc một nhóm người.
Khái niệm kinh tế tư nhân được đưa ra nhằm phân biệt với kinh tế nhà nước, do nhà nước làm chủ và thuộc quyền quản lý của nhà nước.
Kinh tế tư nhân có từ khi nào?
Căn cứ vào cách hiểu trên, có thể thấy, kinh tế tư nhân ra đời và phát triển trước khi xuất hiện nhà nước và kinh tế nhà nước. Trong các phương thức sản xuất dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản, kinh tế tư nhân chiếm vai trò thống trị, quyết định sự vận hành của toàn bộ nền kinh tế.
Đây cũng là khu vực sử dụng tuyệt đại đa số lực lượng sản xuất, tạo ra tuyệt đại bộ phận sản phẩm cho xã hội.
Sau cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933, đặc biệt là sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1945, kinh tế nhà nước có sự phát triển mạnh.
Tuy nhiên, đến những năm 70 của thế kỷ XX, nhận thức về kinh tế nhà nước có sự thay đổi căn bản để phù hợp với những diễn biến kinh tế mới trên thị trường quốc tế, đặc biệt là diễn biến giá dầu lửa, hệ thống tỷ giá hối đoái và mức độ cạnh tranh trên thị trường thương mại quốc tế.
Điều đó dẫn đến sự thu hẹp quy mô kinh tế nhà nước ở nhiều quốc gia để nhường chỗ cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thông qua quá trình tư hữu hóa các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Các thành phần của kinh tế tư nhân
Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, kinh tế tư nhân được dùng để chỉ các thành phần kinh tế phát triển dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do cá nhân làm chủ, hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Cụ thể hơn, kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Cả 2 thành phần kinh tế trên thuộc cùng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nhưng quy mô sở hữu là khác nhau.
Quan hệ đối tác công - tư (PPP) là các thỏa thuận hợp tác giữa khu vực công và tư nhân để phát triển, vận hành và duy trì các dự án cơ sở hạ tầng hoặc dịch vụ công cộng. PPP kết hợp thế mạnh của cả 2 khu vực, tận dụng quyền hạn quản lý của khu vực công và hiệu quả cũng như nguồn lực tài chính của khu vực tư nhân. Các quan hệ đối tác này có thể có nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT) hoặc thiết kế - xây dựng - tài chính - vận hành (DBFO). Một ví dụ về PPP thành công là hệ thống tàu điện ngầm London, nơi các công ty tư nhân tham gia việc tài trợ, xây dựng và vận hành hệ thống đường sắt ngầm. |
Dù hoạt động dưới hình thức nào, kinh tế tư nhân cũng hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân; phần lớn hoạt động vì mục đích lợi nhuận.
Xét về lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, kinh tế tư nhân bao gồm các hộ gia đình, các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các quá trình, hoạt động sản xuất kinh doanh ở các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, vận tải, nông lâm thủy sản, thương mại, dịch vụ, kinh tế xây dựng...
Xét về mô hình tổ chức, kinh tế tư nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp tư nhân được tổ chức dưới các loại hình công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh...
Trên thế giới
Trên thế giới, khái niệm “khu vực tư nhân” được sử dụng để phân biệt với “khu vực công”. Theo đó, khu vực tư nhân là một phần của nền kinh tế, do một cá nhân hoặc nhóm người ngoài nhà nước sở hữu, kiểm soát và điều hành, nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Tại một số quốc gia, khu vực tư nhân có thể bao gồm các doanh nghiệp xã hội (doanh nghiệp có thể do tư nhân hoặc các nhóm cộng đồng sở hữu, có mục tiêu lợi nhuận nhưng lợi nhuận được phân phối cho lợi ích xã hội hoặc cộng đồng).
Các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân cũng có thể hợp tác với các cơ quan do chính phủ điều hành thông qua các thỏa thuận PPP.
Trong nền kinh tế ở các xã hội theo chủ nghĩa tư bản, thị trường tự do, khu vực tư nhân có xu hướng chiếm tỷ trọng lớn hơn khu vực công. Khu vực tư được hình thành dựa trên nhiều cá nhân, quan hệ đối tác và nhóm khác nhau, bao gồm: doanh nghiệp gia đình, doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), quan hệ đối tác, các tập đoàn lớn và đa quốc gia (MNE), các hiệp hội nghề nghiệp và thương mại...
Mặc dù khu vực tư nhân không được bất kỳ cơ quan chính phủ nào trực tiếp kiểm soát, nhưng chính phủ vẫn quản lý các doanh nghiệp trong khu vực này. Bất kỳ doanh nghiệp hoặc tổ chức công ty nào cũng phải hoạt động theo luật pháp của quốc gia nơi đặt trụ sở.
II. VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
Tạo việc làm
Theo các tổ chức quốc tế, sự phát triển kinh tế tư nhân có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giảm nghèo và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện. Bằng cách tạo việc làm, các doanh nghiệp trong khu vực tư trao quyền cho các cá nhân và cộng đồng cải thiện mức sống và đóng góp cho nền kinh tế.
Trên thực tế, khu vực tư nhân là nhà cung cấp việc làm chính ở các nền kinh tế đang phát triển và các quốc gia phát triển. Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) được WB trích dẫn, khu vực này cung cấp 90% số việc làm ở các nước đang phát triển.
Trong khi đó, Khảo sát Chỉ số doanh nghiệp gia đình toàn cầu năm 2025 do Hãng kiểm toán quốc tế Ernst & Young và Đại học St. Gallen (Thụy Sĩ) thực hiện cho thấy, riêng 500 doanh nghiệp gia đình lớn nhất thế giới đã tạo việc làm cho 25,1 triệu người, trong đó các doanh nghiệp bán lẻ trong nhóm này đã sử dụng tới 7,18 triệu lao động.
Thúc đẩy chuyển giao công nghệ
Theo Quỹ Phát triển quốc tế của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (Quỹ OPEC), ở các nền kinh tế tiên tiến, 2/3 chi phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) là từ khu vực kinh tế tư nhân.
Không chỉ có khả năng tạo ra những bước đột phá về công nghệ và năng suất, hoạt động đầu tư vào R&D của khu vực tư nhân có thể mang đến cơ hội mới cho những cá nhân có trình độ cao, giúp giảm lãng phí chất xám, từ đó đóng góp cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, các công ty tư nhân thường mang công nghệ tiên tiến, đổi mới và bí quyết đến các nước đang phát triển, tạo điều kiện cho đổi mới và tăng năng suất trên khắp các lĩnh vực.
Việc chuyển giao công nghệ có thể giúp thu hẹp khoảng cách phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới, đồng thời thúc đẩy công nghiệp hóa bền vững.
Hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tinh thần khởi nghiệp là một khía cạnh quan trọng của tăng trưởng kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào. Bằng cách hỗ trợ tài chính, cung cấp đội ngũ cố vấn, đào tạo và dịch vụ phát triển doanh nghiệp, khu vực tư nhân có thể giúp các doanh nhân khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp của họ.
Điều đó cũng có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra những cơ hội mới cho người dân ở các quốc gia có thu nhập trung bình.
Ví dụ, Dự án Loon của Google nhằm mục đích cung cấp quyền truy cập Internet cho những người ở vùng sâu, vùng xa bằng cách sử dụng khinh khí cầu bay ở độ cao lớn. Đổi mới này có thể tạo ra những cơ hội cho các doanh nhân trong việc phát triển các ứng dụng và dịch vụ mới cho những người dùng ở khu vực khó khăn.
|
Các tập đoàn tư nhân lớn cũng có thể hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua quan hệ đối tác chuỗi cung ứng, các chương trình cố vấn và tiếp cận nguồn tài chính.
Thông qua việc thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ, khu vực tư nhân có thể kích thích tinh thần kinh doanh, tạo ra chuỗi giá trị và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Cung cấp nguồn tài chính quan trọng
Các ngân hàng tư nhân, công ty đầu tư mạo hiểm và các tổ chức tài chính vi mô có thể cung cấp quyền tiếp cận các dịch vụ tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp.
Khu vực tư nhân cũng có khả năng huy động vốn đầu tư, cả trong nước và nước ngoài, để tài trợ cho việc mở rộng kinh doanh, các dự án cơ sở hạ tầng và tiến bộ công nghệ - thông qua việc phân bổ nguồn lực hiệu quả dựa trên nhu cầu thị trường, cơ hội đầu tư và lợi nhuận tiềm năng.
Bằng cách cung cấp vốn cho đầu tư và tinh thần kinh doanh, họ tạo ra sức mạnh kinh tế, kích thích đầu tư, tạo việc làm và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Theo WB, tính chung, khu vực tư nhân chiếm 70 - 85% tổng đầu tư toàn cầu. Trong đó, riêng vốn đầu tư tư nhân ở các nước đang phát triển chiếm khoảng 75% tổng vốn đầu tư.
Phát triển thị trường, nâng cao hiệu quả và năng suất của nền kinh tế
Quỹ OPEC cho phát triển quốc tế cũng nhận định, các công ty tư nhân phản ứng nhanh hơn với nhu cầu của người tiêu dùng và các tín hiệu thị trường, từ đó thúc đẩy nhanh tiến trình đổi mới và nâng cao hiệu quả trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ.
Các công ty tư nhân cũng có thể giúp phát triển thị trường địa phương bằng cách đầu tư vào mạng lưới phân phối, nghiên cứu thị trường và điều chỉnh sản phẩm.
Đồng thời, tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng thúc đẩy sự cạnh tranh, hạ giá, cải thiện chất lượng và mở rộng sự lựa chọn của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, các công ty tư nhân, thường được thúc đẩy bởi các lực lượng thị trường, luôn chú trọng tối đa hóa năng suất. Việc tập trung vào lợi nhuận cũng khuyến khích khu vực này chú trọng tối ưu hóa nguồn lực, hợp lý hóa quy trình và đổi mới để nâng cao khả năng cạnh tranh, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, khu vực tư nhân cũng đang nổi lên như một động lực quan trọng trong việc mở rộng các giải pháp về phát triển bền vững, khi các quốc gia và tổ chức trên khắp thế giới tìm cách chuyển đổi năng lượng để giảm phát thải carbon.
Những ví dụ thường được nhắc đến như việc tập đoàn đầu tư Tikehau Capital đã ra mắt quỹ chuyển đổi năng lượng đầu tiên vào năm 2018, hay việc tập đoàn đầu tư toàn cầu hàng đầu Eurazeo tung ra quỹ dành riêng để giải quyết các thách thức về môi trường...
III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Tại Mỹ
Mỹ là cường quốc về kinh tế, các thương hiệu thuộc sở hữu tư nhân như Google, Apple, Amazon, Microsoft, Facebook, Visa, McDonald's, AT&T, Boeing,... cũng chiếm hầu hết các vị trí trong bảng xếp hạng những thương hiệu hàng đầu thế giới.
Theo thống kê, năm 2020, riêng các công ty cổ phần tư nhân đã tạo ra gần 12 triệu việc làm, tăng gần 3 triệu người so với năm 2018 và đóng góp 6,5% GDP, tương đương 1.400 tỷ USD.
Những năm gần đây, nguồn vốn tư nhân đầu tư vào nền kinh tế Mỹ có sự tăng trưởng đáng kể, đạt khoảng 12.800 tỷ USD và tiền mặt cam kết đầu tư khoảng 3.700 tỷ USD.
Theo Phòng Thương mại Hoa Kỳ, các công ty tư nhân lớn (sử dụng từ 500 lao động trở lên) là trụ cột của nền kinh tế Mỹ. Năm 2024, riêng nhóm doanh nghiệp này đã sử dụng hơn 17 triệu lao động (khoảng 10% số việc làm), mang lại sự ổn định và cơ hội phát triển cho hàng triệu hộ gia đình Mỹ; đóng góp 3.100 tỷ USD cho nền kinh tế; tạo ra 1.700 tỷ USD thu nhập cá nhân và đóng góp khoảng 10% vào GDP của các tiểu bang... |
Để tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, Chính phủ Mỹ đã sớm có những chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy môi trường kinh doanh, nâng cao năng suất. Chính sách này được các tiểu bang xây dựng và phát triển để hỗ trợ các doanh nghiệp sao cho phù hợp với đặc điểm từng vùng để hỗ trợ được các doanh nghiệp một cách tối ưu nhất.
Trong đó, chính phủ tập trung tạo môi trường thuận lợi, xây dựng khu vực kinh tế tư nhân năng động, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư bằng cách cải cách ngành hải quan để hàng hóa sản xuất ra dễ dàng xuất khẩu ra thị trường thế giới và duy trì mức thuế phù hợp.
Mỹ cũng sớm nhận ra tầm quan trọng của việc tiếp cận tài chính để thúc đẩy đầu tư trong và ngoài nước, từ đó đưa ra các chính sách tài khóa, tiền tệ phù hợp, tạo điều kiện cho việc ra đời nhiều ngân hàng thương mại tư nhân, giúp các doanh nghiệp có nhu cầu có thể vay vốn nhanh chóng, dễ dàng.
Chính phủ Mỹ cũng chú trọng xây dựng môi trường chính trị an ninh ổn định, tạo sự an tâm cho các doanh nghiệp tư nhân trong nước phát triển.
Theo nhận định chung, việc phát triển các công ty tư nhân tại Mỹ có ảnh hưởng rất tích cực, bởi có thể tạo ra nhiều việc làm mới có chất lượng và tạo được hiệu ứng lan tỏa cao trong toàn bộ nền kinh tế.
Tại Nhật Bản
Theo Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân nói riêng, khu vực tư nhân nói chung là động lực của tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và nâng cao GDP.
Tại Nhật Bản, điều này được thể hiện khá rõ, bởi trong nền kinh tế lớn này có rất ít doanh nghiệp do Chính phủ sở hữu. Ngoài các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc sở hữu tư nhân chiếm tới 99,7% các thực thể kinh doanh của Nhật Bản.
Các doanh nghiệp này sử dụng một phần đáng kể lực lượng lao động và đóng góp rất lớn vào GDP của đất nước; đồng thời sở hữu nhiều công nghệ quan trọng. Không giống như các tập đoàn lớn, những doanh nghiệp nhỏ và vừa dù phần lớn không nổi tiếng bên ngoài Nhật Bản, nhưng lại là những nhà cung cấp chính cho các thương hiệu quốc tế lớn và nắm giữ vị trí dẫn đầu trong những lĩnh vực rất cụ thể.
Nhiều doanh nghiệp sản xuất các bộ phận máy móc chuyên dụng có độ chính xác cao, trong khi nhiều doanh nghiệp khác lại nổi tiếng bởi các sản phẩm thủ công bắt nguồn từ truyền thống lâu đời nhưng được điều chỉnh cho phù hợp với thị hiếu hiện đại...
Nhằm tái nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo đảm sự ổn định trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động, Nhật Bản đang tích cực thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân thông qua các chính sách hỗ trợ linh hoạt.
Theo đó, Chính phủ nước này ban hành nhiều biện pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh như giảm thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đầu tư vào công nghệ số, cung cấp các gói tài trợ cho hoạt động R&D cũng như đơn giản hóa thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
Bên cạnh đó, chính phủ có những chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, giúp các doanh nghiệp có thể tiếp cận nhân sự có chuyên môn trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, tài chính và quản trị; thúc đẩy quan hệ đối tác với các quốc gia khác thông qua hiệp định thương mại tự do, chương trình hợp tác kinh tế và chính sách viện trợ phát triển chính thức (ODA)...
Về phần mình, khu vực tư nhân Nhật Bản cũng đang tận dụng sức mạnh của trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa, và Internet vạn vật (IoT),... để nâng cao hiệu suất sản xuất và cải thiện chất lượng sản phẩm.
Các công ty không chỉ tập trung vào đổi mới trong lĩnh vực sản xuất, mà còn mở rộng sang các lĩnh vực như y tế, năng lượng tái tạo và thương mại điện tử, góp phần đa dạng hóa nền kinh tế và giảm sự phụ thuộc vào các ngành công nghiệp truyền thống...
Tại Ấn Độ
Khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển mạnh mẽ của Ấn Độ, nhất là từ khi nền kinh tế mở cửa vào năm 1991. Cụ thể, đóng góp của khu vực này vào tăng trưởng GDP tăng từ khoảng 66% trong những năm 80 và 90 của thế kỷ XX lên hơn 80% trong những năm thập niên đầu thế kỷ XXI.
Kể từ những năm 80 của thế kỷ XX, khu vực tư nhân cũng đã giải quyết hơn 90% tổng số việc làm và đóng góp hơn 75% lượng vốn đầu tư trong nước.
Thống kê cho thấy, khu vực tư nhân trong các ngành dịch vụ công nghệ thông tin, sản xuất và lĩnh vực bán lẻ đang có những đóng góp lớn nhất. Chẳng hạn, các tập đoàn công nghệ thông tin như Infosys và TCS đóng góp khoảng 8% GDP.
Các công ty tư nhân, từ các công ty khởi nghiệp đến các công ty đa quốc gia, cũng là những nhà tuyển dụng lớn nhất ở Ấn Độ, trong đó các công ty khởi nghiệp như Byju’s và Zomato trở thành những công ty sử dụng lao động rất lớn.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tư nhân Ấn Độ cũng đầu tư mạnh vào hoạt động R&D, từ đó nâng cao năng suất và có những giải pháp đột phá, ví dụ như Reliance Jio góp phần quan trọng vào sự thay đổi của ngành viễn thông Ấn Độ qua việc cung cấp dịch vụ viễn thông giá cả phù hợp với người dân, Sun Pharma trở thành nhà phát triển thuốc tư nhân toàn cầu...
Khu vực tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong phát triển đường cao tốc, sân bay và giao thông đô thị thông qua quan hệ đối tác công - tư, với nhiều doanh nghiệp có tên tuổi như L&T, Adani Group...
Theo dự báo, mỗi năm Ấn Độ có thêm 11 - 12 triệu thanh niên gia nhập lực lượng lao động và xu hướng này kéo dài đến năm 2055. Chính phủ Ấn Độ xác định, khu vực tư nhân sẽ tiếp tục đóng vai trò then chốt trong việc đáp ứng thách thức này.
Để khu vực tư nhân đủ khả năng gánh vác sứ mệnh đó, chính phủ đã giao Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ (CII) chịu trách nhiệm tăng cường khả năng cạnh tranh của hệ sinh thái kinh tế, thúc đẩy liên kết các doanh nghiệp riêng lẻ với nhu cầu của xã hội.
Bên cạnh công tác vận động chính sách, CII còn tích cực tham gia đào tạo và nâng cao kỹ năng cho những cá nhân trẻ tuổi, cung cấp dịch vụ tư vấn và kết nối nghề nghiệp.
Thành công của chương trình Startup India đã đưa Ấn Độ trở thành quốc gia khởi nghiệp lớn thứ hai trên thế giới, trong đó CII dẫn đầu các sáng kiến thúc đẩy đổi mới trong nước và triển khai chương trình CII Startups Coalition và CII Startupreneurs, tạo điều kiện cho các doanh nhân trẻ kết nối các doanh nhân, nhà đầu tư, cố vấn và nhà cung cấp dịch vụ mới.
Cùng với đó, Chính phủ Ấn Độ có nhiều hình thức khác nhau để thu hút đầu tư tư nhân, đặc biệt là vào đường bộ và đường cao tốc, sân bay, khu công nghiệp và các lĩnh vực như giáo dục đại học, phát triển kỹ năng; khuyến khích khu vực tư nhân sử dụng các công nghệ mới trong sản xuất bền vững...
IV. NỀN TẢNG QUAN TRỌNG CHO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT NAM
Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta luôn khẳng định và nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế quan trọng này.
Những định hướng quan trọng về kinh tế tư nhân
Đại hội VI
Tư duy phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam gắn liền với tư duy phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng đã nêu rõ: “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế...” và “Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”.
Đặc biệt, Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 15-7-1988, của Bộ Chính trị khóa VI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh.
Đại hội VII
Tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Đó là: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước” và “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”.
Với việc coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung, Hội nghị Trung ương 2 khóa VII nêu chủ trương: “Bổ sung và sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho tập thể, cá thể và tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định”.
Đại hội VIII
Đại hội VIII (năm 1996) tiếp tục khẳng định “khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh”.
Đại hội IX
Bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân tiếp tục được thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội IX (năm 2001), khi Đảng ta khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời xác định: “Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh liên kết với nhau với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước”.
Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội IX, trên cơ sở nhận định kinh tế tư nhân có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (năm 2002) thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, trong đó tiếp tục khẳng định: kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết cũng đưa ra nhiều giải pháp quan trọng khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân và đầu tư tư nhân.
Đại hội X
Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta tiếp tục xác định rõ vị trí và định hướng phát triển các thành phần kinh tế chủ yếu. Trong đó, kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vai trò quan trọng và là một trong những động lực của nền kinh tế.
Trong nhiệm kỳ Đại hội X, lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức nêu ra và có quy định cụ thể. Theo đó, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thảo luận và thông qua Quy định số 15-QĐ/TW, ngày 28-8-2006, “Về đảng viên làm kinh tế tư nhân”. |
Đại hội XI
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục chủ trương hoàn thiện cơ chế, chính sách đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng các hình thức thu hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân, khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Đại hội XII
Tại Đại hội XII (năm 2016), trên cơ sở khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, Đảng ta nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”.
Ngày 3-6-2017, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát là: “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đây là lần đầu tiên Trung ương ban hành một Nghị quyết riêng về phát triển kinh tế tư nhân. |
Đại hội XIII
Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động”.
Hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách phát triển kinh tế tư nhân
Thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng, hệ thống pháp luật liên quan đến phát triển kinh tế tư nhân không ngừng được hoàn thiện. Quyền tự do kinh doanh từ chỗ chưa được thừa nhận từng bước được mở rộng và được ghi nhận chính thức bởi Hiến pháp năm 1992 và khẳng định mạnh mẽ tại Hiến pháp năm 2013.
Hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh, các phiên bản Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư đã có những điều chỉnh đột phá. Từ chỉ được kinh doanh những gì Nhà nước cho phép (Luật Doanh nghiệp 1999), đến kinh doanh những gì pháp luật không cấm nhưng phải đăng ký (Luật Doanh nghiệp 2005), kinh doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm (Luật Doanh nghiệp 2014, 2020 và Luật Đầu tư 2014, 2020).
Những thay đổi to lớn và có tính đột phá này cùng với việc xác định rõ ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh đã hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh, làm giảm đáng kể các chi phí phát sinh; đơn giản tối đa thủ tục pháp lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy mọi tiềm năng, tận dụng được cơ hội để phát triển.
Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân cũng không ngừng hoàn thiện thông qua việc ban hành các luật có liên quan như Luật Cạnh tranh; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công - tư; Luật Quy hoạch; Luật Đầu tư công; Luật Đấu thầu; Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa...
Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết về những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đưa ra nhiều giải pháp trọng tâm gồm cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy khởi sự kinh doanh; giảm chi phí sản xuất kinh doanh; tiếp cận thị trường; chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra...
Những nỗ lực đó góp phần hình thành khung pháp luật chung, thống nhất về thành lập, tổ chức và hoạt động đối với mọi tổ chức kinh doanh không phân biệt về hình thức sở hữu và ngày càng tiệm cận với quy định, quy tắc chung của quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
V. TẠO ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, những năm qua các chủ thể trong khu vực kinh tế tư nhân đã không ngừng nỗ lực, chủ động, sáng tạo, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước.
Động lực quan trọng của nền kinh tế
Trên cơ sở những chủ trương, chính sách phù hợp, kinh tế tư nhân ở nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.
Theo thống kê, trong giai đoạn 2018 - 2022, mỗi năm có hơn 130.000 doanh nghiệp được thành lập mới. Đến nay, khu vực kinh tế tư nhân có hơn 6,1 triệu cơ sở kinh doanh, trong đó có khoảng 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động và hơn 5,2 triệu hộ kinh doanh.
Doanh nghiệp tư nhân đã chiếm lĩnh hầu hết các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, như công nghiệp chế biến chế tạo, xây dựng, sản xuất và lắp ráp ô tô, vận tải, hàng không, tài chính - ngân hàng, bất động sản, công nghệ thông tin, nông nghiệp...
Không chỉ phát triển về số lượng, khu vực tư nhân đã có những doanh nghiệp có quy mô lớn cả về vốn và công nghệ, kinh doanh đa ngành, có thương hiệu được khẳng định ở cả thị trường khu vực và quốc tế. Những năm qua, kinh tế tư nhân cũng liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá.
Trong bảng xếp hạng Top 500 doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam năm 2024 do Vietnam Report công bố, tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) của khu vực tư nhân trong Top 500 giai đoạn 2019 - 2022 đạt 26,6%, cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (22,4%), khu vực nhà nước (17,7%) và tăng 1,1% so với giai đoạn trước.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp tư nhân không ngừng đầu tư vào R&D, chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ cao để tối ưu hóa hoạt động kinh doanh, trở thành đầu tàu trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ.
Với sự phát triển nhanh chóng, hiện kinh tế tư nhân là khu vực có đóng góp lớn nhất trong nền kinh tế (đóng góp trên 50% GDP, khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động, hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu) và được xem là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế; góp phần đưa Việt Nam tham gia ngày càng sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu...
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, từ rào cản thể chế, môi trường kinh doanh chưa thuận lợi đến hạn chế trong tiếp cận vốn và công nghệ.
Đa phần doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, hoạt động sản xuất kinh doanh thiếu ổn định, chưa bền vững, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh chưa cao...
Tháo gỡ “điểm nghẽn” tạo đột phá phát triển kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới
Ngày 7-3-2025, phát biểu tại buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về phát triển kinh tế tư nhân, Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá, kinh tế tư nhân nước ta đã có những bước phát triển và trưởng thành vượt bậc, đóng góp to lớn vào nền kinh tế và quá trình đổi mới, phát triển đất nước mặc dù trong điều kiện hoạt động còn nhiều khó khăn, bất cập.
Theo Tổng Bí thư, hiện nay khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn một số hạn chế, yếu kém như nhiều về số lượng nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế về quy mô, tiềm lực, năng lực cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh quốc tế; thiếu vắng doanh nghiệp đầu đàn, dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế; liên kết trong nội bộ và liên kết với các khu vực kinh tế khác còn yếu kém.
Ngoài các doanh nghiệp tư nhân, lực lượng hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể rất lớn, nhưng “không muốn lớn”, “không chịu lớn” bởi những ràng buộc, lo ngại về quy định, thủ tục đặt ra. Sự chủ động, sáng tạo, dám nghĩ lớn, vươn lên trong hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế.
Để phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn tới, Tổng Bí thư Tô Lâm lưu ý: Một là, cần phải thay đổi tư duy, nhận thức, từ đó thay đổi cách “ứng xử” và hành động, chính sách cụ thể đối với khu vực kinh tế quan trọng này; cần khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất, nhất là cho tăng trưởng.
Hai là, phải có chiến lược rõ ràng cho phát triển của khu vực kinh tế tư nhân phù hợp với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế, với không gian địa - kinh tế, địa - chính trị của đất nước và có tính tới những biến đổi của địa - kinh tế, địa - chính trị thế giới nhằm bảo đảm cho kinh tế tư nhân có đủ sức phát triển với khả năng thích ứng, khả năng chống chọi và khả năng cạnh tranh cao.
Ba là, cần tập trung nâng cao một bước cơ bản về hạ tầng và nhân lực phục vụ phát triển chung. Về hạ tầng bao gồm cả các hạ tầng cứng như giao thông, đô thị, khu công nghiệp,... và các hạ tầng về thông tin, số liệu, dữ liệu để phục vụ kết nối, chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông minh, tạo điều kiện thuận lợi chung cho tất cả doanh nghiệp phát triển.
Cần có chính sách rất cụ thể để đào tạo nhân lực nói chung, nhất là phát triển nhân lực chất lượng cao, nhân lực nhân tài theo định hướng phát triển các lĩnh vực mũi nhọn.
Bốn là, điểm cốt yếu để tạo đột phá là tháo gỡ các điểm nghẽn về “thể chế”, nhanh chóng cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, xóa bỏ các rào cản, trở lực đối với sự phát triển của doanh nghiệp, thực hiện nhất quán quan điểm “người dân và doanh nghiệp được phép làm những gì mà pháp luật không cấm”.
Năm là, phải tập trung xây dựng và triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia để thúc đẩy phát triển khu vực này. Trong đó, phải giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa nhanh chóng vươn lên trở thành doanh nghiệp lớn.
Sáu là, cần phải tiếp tục đổi mới, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đặc biệt là phải giải quyết được một cách căn bản, hữu hiệu những bất cập, yếu kém trong khâu tổ chức thực hiện các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Đảng. Phải đưa các nghị quyết của Đảng nhanh chóng và thực sự đi vào cuộc sống.
Tổng Bí thư Tô Lâm đề nghị Ban Chính sách, chiến lược Trung ương tích cực phối hợp với Đảng ủy Chính phủ và các cơ quan trong xây dựng Nghị quyết về kinh tế tư nhân trình Bộ Chính trị ban hành./.
Thành Nam - Duy Anh - Tiến Thắng - Công Minh - Khôi Nguyên (thực hiện)
Các bài cũ hơn



