01/03/2025 | 06:52 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Hoàn thiện thể chế thúc đẩy đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

VŨ TRỌNG LÂM
PGS, TS, Giám đốc, Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
Hoàn thiện thể chế thúc đẩy đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước thăm khu trưng bày tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển
Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” xác định thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước. Do đó, hoàn thiện thể chế là yêu cầu cấp thiết được đặt ra ở nước ta hiện nay nhằm thúc đẩy sự phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đóng góp vào sự phát triển toàn diện của đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Những kết quả quan trọng

Thời gian qua, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế được Đảng và Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ trọng tâm, là một trong những đột phá chiến lược, tạo cơ sở pháp lý, môi trường an toàn, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. 

Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về khoa học (KH), công nghệ (CN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST) được triển khai nghiêm túc, đồng bộ và toàn diện. Hệ thống pháp luật hiện hành đã có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi về đầu tư, tài chính, phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy các hoạt động KH, CN, ĐMST. 

Điều này thể hiện rõ trong Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 với nhiều quy định, chính sách quan trọng, có tính đột phá, tạo tiền đề quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động KH, CN ở phạm vi quốc gia, ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp. Bên cạnh đó là Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2017, Luật Giáo dục năm 2019, Luật Đầu tư năm 2020, Luật Dữ liệu năm 2024. 

Trong hệ thống pháp luật về KH, CN, ĐMST, có 4 luật liên quan trực tiếp đến lĩnh vực KH, CN gồm: Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Công nghệ cao, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ; ngoài ra có 12 luật, 42 nghị định, 131 thông tư khác có liên quan. Hệ thống pháp luật về chuyển đổi số, có 8 luật liên quan trực tiếp và nhiều văn bản luật khác liên quan; 4 nghị quyết của Chính phủ và hơn 160 nghị định, quyết định, thông tư hướng dẫn thi hành. 

Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến nay, Quốc hội đã thông qua 8 luật liên quan. Đặc biệt, 29 đạo luật và 41 nghị quyết được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ bảy và thứ tám đã giải quyết nhiều vấn đề cấp bách của thực tiễn, trong đó có những luật quy định về việc tạo lập cơ sở dữ liệu số; phương thức quản lý, cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù liên quan đến ứng dụng KH, CN, chuyển đổi số (CĐS); cho phép triển khai cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các hoạt động nghiên cứu sản xuất sản phẩm, dịch vụ, các loại hình kinh doanh mới[1].

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về KH, CN, ĐMST và CĐS quốc gia vẫn còn có những hạn chế, như còn thiếu đồng bộ, thống nhất, dẫn đến một số cơ chế khuyến khích, thúc đẩy trong những lĩnh vực này không phát huy được tác dụng. 

Luật Khoa học và Công nghệ cùng các văn bản hướng dẫn đang tập trung chủ yếu vào việc tạo lập hành lang phục vụ quản lý nhà nước về KH, CN, trong khi hoạt động KH, CN vốn là nhu cầu, yêu cầu nội tại của nền sản xuất và của xã hội, đồng thời cũng nảy sinh từ hoạt động ĐMST của mỗi cá nhân, tổ chức. 

Vì vậy, cần chuyển mạnh từ tư duy quản lý sang tư duy phát triển và cụ thể hóa các chính sách khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện các hoạt động KH, CN. Đây chính là nút thắt quan trọng cần được tháo gỡ để huy động tối đa nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển KH, CN. 

Cơ chế quản lý tài chính đối với các tổ chức KH, CN, nhất là các tổ chức sự nghiệp công lập chưa phù hợp, dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế, nhất là thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao trong nghiên cứu.

Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật hiện chưa có các chính sách đãi ngộ, tuyển dụng và “giữ chân” hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với nhu cầu phát triển của KH, CN, ĐMST, trong khi đó, mong muốn tạo ra sức hút từ môi trường làm việc linh hoạt, tự chủ trong nghiên cứu và có cơ hội tham gia các dự án quốc tế khó thực hiện. Những chính sách thu hút nhân tài trong lĩnh vực khoa học xã hội chưa đủ sức cạnh tranh... 

Các quy định pháp lý về sở hữu trí tuệ hiện tại chưa thực sự hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và làm suy giảm động lực đầu tư vào nghiên cứu; thiếu sự bảo vệ hiệu quả khiến các sáng chế có nguy cơ bị sao chép, xâm phạm bản quyền, làm giảm giá trị của các tài sản trí tuệ và gây ra sự e ngại từ các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp.

Giải pháp thời gian tới

Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước yêu cầu cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá phát triển KH, CN, ĐMST và CĐS, hướng tới thực hiện thắng lợi các mục tiêu đến năm 2030 và năm 2045. Do đó, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để hoàn thiện thể chế, tạo đột phá phát triển KH, CN, ĐMST và CĐS:

Một là, các cấp ủy, chính quyền từ Trung ương đến địa phương tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Kết luận số 69-KL/TW, ngày 11-1-2024, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.

Hai là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Kinh phí cần “đủ và đúng thời điểm” để bảo đảm tính mới và hiệu quả của các nhiệm vụ KH, CN. Đổi mới phương pháp xây dựng kế hoạch để hoạt động KH, CN phù hợp với đặc thù: mở rộng phạm vi và khuôn khổ tài trợ của mô hình quỹ KH, CN. 

Tạo cơ chế, chính sách thử nghiệm, đặc thù, vượt trội trong nghiên cứu KH và phát triển CN thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013; trao quyền tự chủ lớn hơn cho các tổ chức KH, CN quan trọng; thực hiện cơ chế vượt trội nhằm thu hút và “giữ chân” nhân tài trong lĩnh vực KH, CN, ĐMST và CĐS.

Ba là, hoàn thiện chính sách phát triển tiềm lực KH, CN; trong đó, tập trung tăng thu nhập thường xuyên cho nhân lực nghiên cứu của tổ chức KH, CN, tạo điều kiện cho nhà khoa học yên tâm nghiên cứu. Thúc đẩy phát triển nhân lực KH, CN, ĐMST và CĐS ở cả khu vực các cơ quan quản lý nhà nước, các viện, trường và doanh nghiệp. 

Huy động nguồn lực ngoài ngân sách đầu tư phát triển hạ tầng, CĐS trong xây dựng, quản lý và chia sẻ dữ liệu thông tin KH, CN, ĐMST. Ban hành các chế độ, chính sách thu hút nhà khoa học đầu ngành, mở rộng phạm vi, đối tượng khen thưởng phù hợp với các thành phần tham gia hoạt động nghiên cứu, phát triển KH, CN, ĐMST.

Bốn là, tập trung xây dựng thể chế vượt trội và chấp nhận rủi ro trong hoạt động KH, CN, ĐMST. Thiết lập các cơ chế báo cáo rủi ro kịp thời, đồng thời có các quy trình xử lý rủi ro linh hoạt, phù hợp với từng tình huống cụ thể. Bảo đảm quyền lợi của các nhà nghiên cứu, khuyến khích họ báo cáo rủi ro một cách trung thực và kịp thời. 

Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho hoạt động KH, CN vào các lĩnh vực ưu tiên, đột phá, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, làm trụ cột cho công nghiệp trong nước; khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia đặt hàng các nhiệm vụ nghiên cứu công nghệ cao nhằm mục đích chuyển giao cho doanh nghiệp sau khi hoàn thiện công nghệ; tham gia, tổ chức các hội nghị chuyên đề quốc tế về các lĩnh vực KH, CN trọng điểm; thuê chuyên gia, tư vấn nước ngoài tham gia trong quá trình nghiên cứu đánh giá các nhiệm vụ KH, CN, sử dụng các chỉ số KH, CN theo tiêu chuẩn quốc tế trong thống kê và xây dựng cơ sở dữ liệu về KH, CN. 

Xúc tiến các hoạt động nghiên cứu KH, CN với các tập đoàn, doanh nghiệp nước ngoài...

Năm là, rà soát, đề xuất ban hành cơ chế, chính sách phát triển khởi nghiệp ĐMST; chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới CN, doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST, ứng dụng công nghệ cao; chính sách hỗ trợ nhân rộng các kết quả nghiên cứu KH, CN.

Sáu là, hoàn thiện chính sách bảo hộ, thực thi phát triển và khai thác tài sản trí tuệ phù hợp với các hiệp định thương mại mới; xây dựng các văn bản hướng dẫn bảo đảm hiệu quả việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khắc phục tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển KH, CN, ĐMST và CĐS, tạo điều kiện để nước ta vươn lên “bắt kịp, tiến cùng, bứt phá và vượt lên” trong thời kỳ mới./.


[1] Xem: Trần Thanh Mẫn: “Chủ trương, giải pháp về thể chế, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, Báo cáo tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ngày 13-1-2025.


Trang: 1 2 3 4 5 ... 24 Sau