Giải pháp nào chấm dứt xung đột Nga - Ukraina?
Tuy nhiên, những hoạt động đó cũng cho thấy những khác biệt trong cách tiếp cận của các nước lớn trong việc giải quyết cuộc xung đột này; đồng thời thể hiện vết rạn ngày càng rõ nét trong mối quan hệ giữa Mỹ và đồng minh EU. Mặc dù những nội dung chính của kế hoạch hòa bình cho Ukraina chưa chính thức được công bố, nhưng ngay tại thời điểm này, bên cạnh diễn biến phức tạp trên chiến trường, có rất nhiều yếu tố có thể trở thành những cản ngại tiếp theo cho tiến trình tìm kiếm giải pháp chấm dứt cuộc xung đột này!
I. NGA - UKRAINA: HƠN 1.000 NGÀY XUNG ĐỘT
Ngày 24-2-2025 đánh dấu tròn 3 năm Nga tiến hành “chiến dịch quân sự đặc biệt” nhằm “phi quân sự hóa” Ukraina. Cuộc xung đột không chỉ khiến châu Âu trở thành một “điểm nóng”, mà còn gây ra không ít ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu.
Năm 2022
Sau khi ký sắc lệnh công nhận độc lập cho 2 tỉnh Donetsk và Lugansk thuộc khu vực Donbas ở phía Đông Ukraina, ngày 24-2, Tổng thống Vladimir Putin tuyên bố Nga bắt đầu “chiến dịch quân sự đặc biệt” nhằm “phi quân sự hóa” Ukraina và bảo vệ người dân Donbas.
Ngay lập tức, Tổng thống Mỹ Joe Biden gọi cuộc tấn công là “vô cớ và không chính đáng”; đồng thời ban hành các lệnh trừng phạt nghiêm khắc đối với các quan chức cấp cao của Điện Kremlin, 4 ngân hàng lớn nhất của Nga và phối hợp với các đồng minh châu Âu ngừng hợp tác với các doanh nghiệp dầu khí Nga...
Ngày 2-3, tại phiên họp khẩn cấp của Đại hội đồng Liên hợp quốc, 141/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc đã bỏ phiếu lên án các cuộc tấn công của Nga, yêu cầu nước này ngay lập tức rút quân khỏi Ukraina.
Tuy nhiên, các cuộc tấn công của Nga vẫn tiếp diễn, gây ra thiệt hại đáng kể cho phía Ukraina. Không chỉ các công trình quân sự hay hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông và thông tin liên lạc, nhiều bệnh viện, trường học, khu dân cư cũng phải hứng chịu những cuộc pháo kích và ném bom.
Cuối tháng 3, Nga tuyên bố “giảm hoạt động quân sự” gần Kiev và Chernihiv, tiếp đó là rút toàn bộ quân khỏi khu vực thủ đô của Ukraina vào ngày 6-4.
Ngày 18-4, Nga phát động một cuộc tấn công lớn mới ở miền Đông Ukraina. Đến tháng 5, lực lượng Nga đã kiểm soát Mariupol - một thành phố cảng lớn, có tính chiến lược cao ở phía Đông Nam.
Kể từ mùa hè năm 2022, giao tranh phần lớn chỉ giới hạn ở phía Đông và phía Nam Ukraina; các thành phố cảng dọc theo Biển Đen và Biển Azov bị đánh phá dữ dội. Việc Nga chiếm giữ một số cảng, sau đó phong tỏa xuất khẩu thực phẩm của Ukraina, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu vốn đã trầm trọng.
Tháng 7-2022, Nga và Ukraina ký thỏa thuận giải phóng hơn 20 triệu tấn ngũ cốc khỏi các cảng của Ukraina do Nga kiểm soát. Tháng 10, Nga đã đình chỉ thỏa thuận này để đáp trả một cuộc tấn công bị cáo buộc của Ukraina vào lực lượng hải quân Nga. Sau khi đàm phán với Thổ Nhĩ Kỳ, Nga đã tiếp tục gia hạn thỏa thuận này cho đến ngày 17-7-2023 thì chấm dứt. |
Trong tháng 9, lực lượng Ukraina tổ chức phản công mạnh ở phía Đông Bắc, chiếm lại phần lớn khu vực Kharkiv, gây bất ngờ cho lực lượng Nga và cắt đứt các tuyến tiếp tế quan trọng tại Lyman. Ở phía Nam, lực lượng Ukraina chiếm lại thành phố Kherson và buộc Nga phải rút khỏi toàn bộ lãnh thổ phía Tây sông Dnipro.
Sau đó, Nga tái triển khai lực lượng về phía Đông đến Donetsk. Cuối tháng 9, Nga tiến hành sáp nhập 4 vùng lãnh thổ Luhansk, Donetsk, Kherson và Zaporizhzhia.
Năm 2023
Sau một mùa đông bế tắc, tháng 2, Nga công bố kế hoạch chiếm toàn bộ Donbas vào tháng 3. Tuy nhiên, cuộc tấn công không đạt được nhiều tiến triển và đã trở thành cuộc bao vây kéo dài nhiều tháng đối với Bakhmut, một thị trấn có giá trị chiến lược hạn chế nhưng mang tính biểu tượng đáng kể.
Đến cuối tháng 5, Nga tuyên bố kiểm soát Bakhmut và các nỗ lực của Ukraina nhằm chiếm lại khu vực này đã không thành công. Mỹ ước tính Nga đã phải chịu 100.000 thương vong, trong đó có 20.000 binh sĩ thiệt mạng ở Bakhmut.
Giữa năm 2023, phía Nga phải đối mặt với một thách thức nội bộ lớn, liên quan đến cuộc nổi loạn của nhóm lính đánh thuê Wagner. Cuối tháng 6, Tổng thống Belarus Alexander Lukashenko đã đàm phán để Prigozhin - người đứng đầu Wagner và những người lính của ông di dời đến Belarus. Hai tháng sau cuộc nổi loạn, Prigozhin đã chết trong một vụ tai nạn máy bay tư nhân bên ngoài Moscow. |
Cũng trong tháng 6, Ukraina phát động cuộc phản công nhằm phá vỡ các tuyến phòng thủ của Nga về phía Đông ở tỉnh Donetsk và về phía Nam ở tỉnh Zaporizhzhia, nơi tạo thành “hành lang trên bộ” đến Crimea.
Dù gặp phải sự kháng cự quyết liệt và chịu tổn thất nặng nề trước các vị trí phòng thủ kiên cố của Nga, nhưng Ukraina đã đạt được những thành quả nhỏ trên bộ và đã tăng cường các cuộc tấn công vào các cây cầu đến Crimea, tàu Nga và các tòa nhà ở Moscow...
Tháng 11, sau các cuộc phản công thất bại của Ukraina, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Ukraina Valerii Zaluzhnyi cho biết cuộc chiến đã đi vào bế tắc.
Năm 2024
Do bất đồng quan điểm, tháng 2-2024, Tổng thống V. Zelensky đã thay thế ông Zaluzhnyi bằng Tướng Oleksandr Syrsky. Ngay sau khi được bổ nhiệm, ông Syrsky đã ra lệnh rút quân khỏi Avdiivka - thị trấn có tầm quan trọng chiến lược ở Donetsk, nơi giao tranh đã diễn ra trong 4 tháng - để thoát khỏi thế bị bao vây. Tuy nhiên, quyết định này mang lại cho Nga chiến thắng quan trọng nhất trên chiến trường kể từ khi chiếm được Bakhmut vào tháng 5-2023.
Đầu tháng 8-2024, Ukraina phát động chiến dịch tấn công bất ngờ vào tỉnh Kursk của Nga. Đây là cuộc tấn công xuyên biên giới đầu tiên chủ yếu do lực lượng quân sự Ukraina tiến hành, nhằm mục đích chuyển hướng quân đội và nguồn lực của Nga khỏi miền Đông Ukraina. Lực lượng Ukraina chiếm được 1.250km2 lãnh thổ của Nga, tuy nhiên tiến độ đã bị đình trệ khi Nga triển khai hơn 50.000 quân để chống lại và tuyên bố đã chiếm lại được khoảng một nửa lãnh thổ đã mất ở Kursk. Tháng 1-2025, Ukraina tiếp tục thực hiện cuộc tấn công thứ hai nhưng không thu được nhiều kết quả do phản ứng nhanh chóng của Nga. |
Vào tháng 11, Ukraina tiến hành cuộc tấn công bằng máy bay không người lái lớn nhất vào Moscow. Một tháng sau, máy bay không người lái của Ukraina tiếp tục xâm nhập sâu vào lãnh thổ Nga, đến Kazan và tấn công các cơ sở hạ tầng quan trọng như nhà máy lọc dầu, kho chứa và nhà máy chế biến khí đốt...
Trong khi đó, lực lượng Nga không ngừng tìm cách làm suy yếu tiền tuyến của Ukraina. Vào tháng 5, Nga phát động cuộc tấn công vào khu vực Kharkiv. Các chiến dịch mùa thu và mùa đông cũng giúp Nga tiến sâu hơn vào phía Đông và Đông Nam của Ukraina, đặc biệt là ở Donetsk.
Trong những tháng đầu năm 2025, Nga và Ukraina tiếp tục tăng cường các cuộc tấn công gây chết người, sử dụng ngày càng nhiều vũ khí tiên tiến và làm dấy lên lo ngại rằng xung đột có thể leo thang hơn nữa.
Kể từ ngày 24-2-2022, Mỹ đã cam kết hỗ trợ hơn 118 tỷ USD cho Ukraina, gồm khoảng 65 tỷ USD viện trợ quân sự ngay lập tức. Các quốc gia thành viên Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) cũng liên tục ủng hộ nỗ lực chiến tranh của nước này. Đầu năm 2023, chính quyền Joe Biden phê duyệt việc cung cấp vũ khí ngày càng tiên tiến, như hệ thống phòng không Patriot, để phòng thủ chống lại các cuộc không kích và xe tăng chiến đấu của Nga. Sự hiện diện của quân đội Mỹ tại châu Âu cũng đã tăng lên hơn 100.000 binh sĩ. Tháng 11-2024, Tổng thống Mỹ cho phép Kiev sử dụng tên lửa tầm xa ATACMS do nước này sản xuất nhằm vào các mục tiêu quân sự bên trong nước Nga, một động thái mà Moscow từ lâu đã cảnh báo sẽ gây ra phản ứng tàn khốc. Trong khi đó, Nga tiếp tục xây dựng các mối quan hệ đối tác của mình. Bên cạnh đó, những lời đe dọa của ông V. Putin trong suốt cuộc chiến về việc sử dụng vũ khí hạt nhân tiếp tục gây nhiều lo ngại. Sau khi tuyên bố chuyển vũ khí hạt nhân chiến thuật vào Belarus (tháng 6-2023), đúng 1 năm sau Nga và Belarus tiến hành các cuộc tập trận vũ khí hạt nhân. Tháng 11-2024, Tổng thống Nga đã sửa đổi học thuyết hạt nhân, tuyên bố rằng Nga sẽ coi một cuộc tấn công thông thường của một đồng minh của một quốc gia hạt nhân là lý do để Moscow tiến hành một cuộc tấn công hạt nhân. Ngày 21-11, Nga phóng Oreshnik - một tên lửa đạn đạo thử nghiệm có khả năng mang đầu đạn hạt nhân - lần đầu tiên vào Ukraina, trong cái mà phía Nga gọi là phản ứng đối với việc Kiev sử dụng ATACMS tấn công các mục tiêu trên đất Nga. |
II. NHỮNG THIÊT HẠI CHƯA THỂ ĐONG ĐẾM HẾT
Sau 3 năm xung đột, cuộc chiến giữa Nga và Ukraina đã gây ra những thiệt hại rất nghiêm trọng cho cả hai phía; đồng thời tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực tới hòa bình và phát triển trên phạm vi toàn cầu...
Thiệt hại lớn
Theo dữ liệu của Viện Nghiên cứu chiến tranh (ISW), các cuộc xung đột giữa hai bên đã buộc 10,2 triệu trong tổng số 44 triệu người Ukraina (23%) phải di dời, trong đó 3,7 triệu người di cư trong nước và 6,5 triệu người phải tìm kiếm sự an toàn tại các quốc gia lân cận; nhiều người khác bị mắc kẹt ở các khu vực bị ảnh hưởng bởi xung đột nhưng không thể rời đi do các hành động quân sự.
Các cuộc tấn công liên tục khiến hàng triệu người Ukraina không được tiếp cận các dịch vụ thiết yếu, bao gồm nước, điện, hệ thống sưởi...; gần 10 triệu người có nguy cơ mắc hoặc đang sống chung với các tình trạng sức khỏe tâm thần, bao gồm căng thẳng, lo âu, trầm cảm và rối loạn căng thẳng sau chấn thương.
Tình hình đối với trẻ em đặc biệt đáng lo ngại do phải tiếp xúc với xung đột và bạo lực, hạn chế tiếp cận giáo dục an toàn và hạn chế cơ hội tương tác xã hội... Các tổ chức quốc tế ước tính rằng, khoảng 14,6 triệu người Ukraina cần được hỗ trợ nhân đạo.
Dữ liệu của Viện Nghiên cứu chiến tranh cho biết, đến nay cuộc chiến đã cướp đi mạng sống của 12.340 người dân Ukraina và 387 người dân Nga. |
Tuy nhiên, các quan chức Liên hợp quốc và Ukraina cho biết con số thực tế có thể cao hơn nhiều, do khó khăn trong việc xác minh số người chết và bị thương, đặc biệt là ở những khu vực bị tàn phá hiện nằm trong tay Nga.
Một thống kê khác cũng cho thấy, cuộc xung đột đã làm hơn 3.400 trường học và bệnh viện bị hư hại hoặc phá hủy. Các cuộc tấn công của Nga vào cơ sở hạ tầng dân sự như trường học và bệnh viện đã cướp đi mạng sống của gần 600 trẻ em Ukraina và khiến hơn 1.600 trẻ em khác bị thương.
Bên cạnh đó, các cuộc tấn công có hệ thống, có mục tiêu vào cơ sở hạ tầng năng lượng cũng khiến người dân Ukraina phải trải qua những mùa đông rất khó khăn. Các chuyên gia ước tính rằng, riêng các cuộc tấn công vào cơ sở năng lượng trong năm 2024 đã khiến Ukraina mất thêm khoảng 9GW công suất phát điện, nâng tổng công suất phát điện bị phá hủy hoặc chiếm đóng lên 36G, tương đương 64% tổng công suất phát điện của nước này.
Ở chiều ngược lại, một cuộc điều tra của báo chí vào tháng 3-2024 ước tính rằng, các cuộc không kích của Ukraina đã khiến các cơ sở chiếm 1/6 sản lượng xăng và dầu diesel ở Nga phải ngừng hoạt động. Trong những ngày gần đây, Ukraina tiếp tục thực hiện nhiều cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga như nhà máy sản xuất nước sạch ở Lipetsk, Nhà máy Luyện kim Novolipetsk, trạm bơm dầu ở Tver...
Cơ quan này lưu ý, do hầu hết lãnh thổ của vùng Luhansk và nhiều phần của vùng Zaporizhzhia, Donetsk và Kherson vẫn nằm trong sự kiểm soát của Nga nên không thể xác định chính xác số lượng di sản văn hóa bị hư hại tại các khu vực trên. |
Dù số liệu thương vong và thiệt hại trên chiến trường của cả Nga và Ukraina chưa bao giờ được hai bên chính thức công bố, nhưng theo ước tính của ISW vào tháng
1-2025, cuộc chiến đã gây thương vong cho 400.000 quân nhân Ukraina và có 35.000 trường hợp được xem là mất tích. Trong khi đó, hơn 700.000 quân nhân Nga cũng bị thiệt mạng hoặc bị thương; 48.000 trường hợp mất tích.
Cũng theo thống kê của ISW, trong cuộc chiến này, quân đội Nga đã mất gần 12.000 xe tăng và xe bọc thép, 286 máy bay và 22 tàu chiến; còn phía Ukraina mất gần 4.000 xe tăng và xe bọc thép, 173 máy bay và 35 tàu chiến.
Các nguồn tin độc lập ước tính, đã có 120.000 binh lính Nga thiệt mạng và bị thương ở Ukraina tính đến tháng 6-2024. Gần đây, Bộ trưởng Quốc phòng Anh John Healey cũng tuyên bố một kỷ lục hằng tháng là 41.980 người Nga thiệt mạng và bị thương vào tháng 10-2024. |

Những tác động tiêu cực khác
Cuộc chiến của Nga tại Ukraina đã phá hủy nghiêm trọng nền kinh tế Ukraina, khiến tăng trưởng suy giảm mạnh (GDP giảm -22,6% trong 3 năm, tính đến hết năm 2024); giá trị đồng hryvnia Ukraina giảm tới 27% so với USD. Riêng năm 2024, thâm hụt ngân sách của nước này lên tới 20,4% GDP, chưa bao gồm viện trợ.
Về phần mình, nền kinh tế Nga cũng bị bóp méo do doanh thu từ xuất khẩu năng lượng và đầu tư nước ngoài giảm mạnh; chi tiêu quân sự tăng, chiếm 40% ngân sách và 25% tổng chi tiêu. Tình trạng thiếu hụt tiền dự trữ do chiến tranh gây ra đã khiến nhiệm vụ bảo đảm cuộc sống người dân trở nên khó khăn hơn. Việc đồng ruble Nga suy yếu đáng kể; lạm phát hằng năm tăng cao cộng với lãi suất cơ bản đáng kinh ngạc của Ngân hàng Trung ương có thời điểm lên tới 21%,... có nguy cơ gây ra tình trạng lạm phát và phá sản hàng loạt.
Ngoài những tác động trực tiếp đó, cuộc xung đột Nga - Ukraina cũng gây ra hiệu ứng lan tỏa trên toàn thế giới, làm gián đoạn chuỗi cung ứng trên toàn cầu, làm tăng giá thực phẩm, nhiên liệu và các mặt hàng khác do Ukraina là quốc gia cung cấp một phần đáng kể các mặt hàng nông sản của thế giới bao gồm lúa mì, lúa mạch, ngô và hướng dương; trong khi Nga là nhà cung cấp dầu mỏ, khí đốt và nhiều loại nguyên liệu thô quan trọng.
Chưa hết, cuộc xung đột này còn gây ra thiệt hại to lớn về khí hậu, do việc sử dụng hàng tỷ lít nhiên liệu cho các phương tiện quân sự; những cánh đồng và khu rừng rộng lớn bị đốt cháy; hàng trăm công trình dầu khí bị phá hủy và hàng núi thép và xi măng được sử dụng để củng cố tiền tuyến cũng như các thành phố và cơ sở hạ tầng năng lượng... Ước tính, tổng thiệt hại về khí hậu chỉ trong 2 năm đầu xung đột đã lên tới 32 tỷ USD.
III. HY VỌNG MỚI CHO VIÊC CHẤM DỨT XUNG ĐỘT NGA - UKRAINA
Sau gần 3 năm, việc tìm kiếm giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột giữa Nga và Ukraina dường như luôn bế tắc, khi hai bên không có bất cứ cuộc đàm phán cấp cao nào mà chỉ đưa ra các tuyên bố đơn phương và không chịu nhượng bộ. Tuy nhiên, những bước đi ngoại giao quốc tế dồn dập giữa tháng 2-2025 đã mở ra hy vọng mới về việc kết thúc cuộc xung đột đã gây nhiều mất mát, hệ lụy này.
Những khác biệt khó hóa giải
Sau một số cuộc gặp hồi đầu năm 2022 ở Belarus và Thổ Nhĩ Kỳ, Nga và Ukraina đã dừng các cuộc đàm phán hòa bình. Mặc dù vậy, phía Nga nhiều lần lưu ý đã sẵn sẵn sàng cho các cuộc đàm phán nhưng nên tính đến “những diễn biến thực tế trên thực địa”. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Nga muốn giữ lại những vùng lãnh thổ Ukraina mà họ đang kiểm soát.
Ngoài ra, Điện Kremlin nhấn mạnh yêu cầu phương Tây phải dỡ bỏ mọi lệnh trừng phạt đã áp đặt đối với Nga kể từ năm 2022 và chấm dứt tất cả những cuộc điều tra hình sự đang được tiến hành đối với các quân nhân và chỉ huy Nga bị cáo buộc phạm tội ác chiến tranh trên lãnh thổ Ukraina; duy trì tình trạng trung lập của Ukraina, như không kết nạp nước này vào NATO...
Ngược lại, Ukraina yêu cầu Nga rút khỏi toàn bộ những vùng lãnh thổ mà nước này kiểm soát, nói rằng Kiev phải được cấp tư cách thành viên NATO hoặc các bảo đảm an ninh tương đương để ngăn chặn xung đột nổ ra một lần nữa.
Chính những khác biệt đó, cùng với những tính toán của Mỹ, các thành viên NATO và các nước EU cũng như sự giằng co trên chiến trường đã khiến việc giải quyết cuộc xung đột rơi vào tình trạng bế tắc.
Cơ hội chấm dứt xung đột bằng giải pháp hòa bình?
Tuy nhiên, sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ với chiến thắng thuộc về cựu Tổng thống của Đảng Cộng hòa Donald Trump, nhiều người tin rằng cuộc xung đột Nga - Ukraina có thể sớm kết thúc.
Sau khi nhậm chức (ngày 20-1-2025), dù đã thay đổi khung thời gian cho một thỏa thuận hòa bình từ “24 giờ” thành “nửa năm”, nhưng ông D. Trump vẫn khá lạc quan về việc làm trung gian cho một thỏa thuận ngừng bắn với Tổng thống Nga V. Putin. Trước đó, trong cuộc họp báo thường niên cuối năm 2024, Tổng thống Nga cho biết ông sẵn sàng nói chuyện với Tổng thống Mỹ “bất cứ lúc nào”. Đây là điều không xảy ra trong nhiệm kỳ của Tổng thống Joe Biden.
Trên thực tế, ngay sau khi nắm chính quyền, tân Tổng thống Mỹ đã đặt câu hỏi về viện trợ của Mỹ cho Ukraina, dù đây là vấn đề mà người tiền nhiệm J. Biden và các đồng minh NATO của Mỹ coi là rất quan trọng để bảo vệ không chỉ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina mà còn cả trật tự thế giới.
Ngày 13-2, Người phát ngôn Điện Kremlin, ông Dmitry Peskov cho biết, Nga bắt đầu thành lập một nhóm đàm phán với Mỹ, bao gồm cả việc thảo luận về tình hình ở Ukraina. Theo ông D. Peskov, các nhà lãnh đạo đã chỉ đạo các trợ lý chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh song phương. Ngày 15-2, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov đã có cuộc điện đàm với Ngoại trưởng Mỹ M. Rubio và nhất trí thiết lập một kênh liên lạc nhằm giải quyết các vấn đề lâu dài trong quan hệ giữa 2 nước. |
Cùng với đó, người đứng đầu Nhà Trắng cũng gợi ý rằng Ukraina “có thể là của Nga một ngày nào đó” và cho biết chính quyền của ông đã đạt được “tiến bộ to lớn” trong việc đặt nền tảng cho các cuộc đàm phán hòa bình tiềm năng với Nga và Ukraina.
Một ngày sau khi Nga trả tự do cho giáo viên người Mỹ Marc Fogel (thụ án 14 năm tù tại Nga) để đổi lấy một trùm tội phạm mạng người Nga đang bị giam giữ tại Mỹ - động thái được Kremlin đánh giá là có thể giúp xây dựng lòng tin giữa 2 nước - ngày 12-2, Tổng thống D. Trump có cuộc điện đàm kéo dài 90 phút với người đồng cấp Nga.
Cuộc trao đổi này không chỉ đánh dấu sự kết thúc những nỗ lực của Mỹ nhằm cô lập Nga về mặt ngoại giao từ khi nước này tiến hành các cuộc tấn công vào Ukraina 3 năm trước, mà còn đạt được bước tiến đáng kể khi hai bên đã đồng ý tiến hành đàm phán ngay lập tức để chấm dứt cuộc xung đột này; đồng thời nhất trí tiếp tục liên lạc và sẽ sắp xếp một cuộc gặp trực tiếp.
Tuyên bố chính thức của Điện Kremlin về cuộc trao đổi này cho biết, Tổng thống V. Putin nhấn mạnh rằng “một giải pháp lâu dài có thể đạt được thông qua các cuộc đàm phán hòa bình”.
Cùng ngày, Tổng thống Mỹ cũng có cuộc điện đàm để chia sẻ với Tổng thống Ukraina V. Zelensky về cuộc trò chuyện của mình với Tổng thống Nga và việc Mỹ đồng ý lên kế hoạch cho các cuộc họp song phương trong tương lai; đồng thời thảo luận về cuộc họp vào ngày 14-2 giữa ông Zelensky và Phó Tổng thống Mỹ JD Vance, Ngoại trưởng M. Rubio tại Hội nghị An ninh Munich...
Có thể nói, những động thái kể trên đã tháo gỡ tình trạng bế tắc, tạo ra những bước chuyển mới tích cực trong việc tìm kiếm giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột Nga - Ukraina.
IV. VAI TRÒ NÀO CHO LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ UKRAINA?
Ngay tại thời điểm này, những động thái của phía Mỹ cũng làm dấy lên sự lo ngại của Ukraina và các nước EU về vai trò của mình trong tiến trình đàm phán. Đây là một trong những vấn đề có tính quyết định tới việc hiện thực hóa những giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột này.
Lo ngại “thỏa thuận ngầm”
Động thái đầu tiên khiến các quốc gia châu Âu - đồng minh của Mỹ - hết sức bất ngờ là những vấn đề được ông Pete Hegseth - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - đưa ra tại cuộc gặp với các nhà lãnh đạo NATO tại cuộc họp ngày 12-2 ở Brussels (Bỉ).
Theo đó, ông Hegseth tuyên bố rằng Mỹ sẽ rút khỏi vai trò là người bảo đảm an ninh cho lục địa sau Thế chiến II, chuyển gánh nặng hỗ trợ Kiev sang các nước châu Âu và tuyên bố Nhà Trắng sẽ tập trung trở lại vào Trung Quốc cùng các vấn đề trong nước. “Chắc chắn, trong bất kỳ thỏa thuận bảo đảm an ninh nào, Mỹ sẽ không triển khai quân đội đến Ukraina”, ông Hegseth khẳng định.
Có thể nói, tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ là một “cú sốc” đối với các quốc gia châu Âu sau gần 1 thế kỷ cường quốc này thực hiện chính sách can thiệp sâu rộng vào khu vực châu Âu và đang dẫn đầu những nỗ lực hỗ trợ Ukraina.
Những phát biểu này, cùng với cuộc diện đàm của Tổng thống Mỹ và Tổng thống Nga sau đó vài giờ đã thực sự khiến các đồng minh lo ngại. Điều này đã thể hiện khá rõ tại Hội nghị của 32 Bộ trưởng Quốc phòng NATO (tổ chức tại Bỉ ngày 13-2) và Hội nghị An ninh Munich (MSC 2025, tổ chức tại Đức từ ngày 14 đến ngày 16-2).
Phát biểu trước báo giới, Bộ trưởng Quốc phòng Anh John Healey khẳng định: “không thể có chuyện đàm phán về Ukraina mà không có Ukraina tham gia. Tiếng nói của Ukraina phải là trọng tâm của bất kỳ cuộc đàm phán nào”.
Bộ trưởng Quốc phòng Đức Boris Pistorius nói: “châu Âu phải tham gia vào các cuộc đàm phán và tôi nghĩ điều đó rất dễ hiểu, đặc biệt nếu châu Âu được cho là đóng vai trò trung tâm hoặc chính trong trật tự hòa bình”. Ông nói thêm châu Âu “sẽ phải sống trực tiếp” với kết quả đàm phán.
Bộ Ngoại giao Pháp ra tuyên bố: “Ukraina và châu Âu phải là một phần của bất kỳ cuộc đàm phán nào”. Còn người đứng đầu bộ phận đối ngoại của EU Kaja Kallas cảnh báo về “sự xoa dịu” hoặc bất kỳ thỏa thuận nào được thực hiện sau lưng người châu Âu. “Bất kỳ thỏa thuận nào sau lưng chúng ta đều sẽ không hiệu quả. Bất kỳ thỏa thuận nào cũng cần có sự tham gia của Ukraina và châu Âu”, bà Kallas nói.
Trong khi đó, ngay trước MSC 2025, Chủ tọa Hội nghị, ông Christoph Heusgen (ảnh) - cựu Cố vấn An ninh và Đối ngoại của cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel - nhấn mạnh rằng, sẽ không có cuộc đàm phán nào về vấn đề Nga - Ukraina ở Munich vì các đại diện của Chính phủ Nga không được mời họp.
Cũng tại hội nghị này, Tổng thống Volodymyr Zelensky tuyên bố sẵn sàng đàm phán với Nga có điều kiện, đảo ngược lệnh nghiêm cấm các hoạt động đàm phán với chính quyền Nga kể từ tháng 10-2022.
Châu Âu giành lại quyền chủ động?
Phát biểu tại MSC 2025, nhiều lãnh đạo châu Âu tiếp tục khẳng định vai trò của khu vực trong tiến trình đàm phán Nga - Ukraina. Theo lãnh đạo các nước, châu Âu cần phải được tham gia vào quá trình này. Tổng thống Latvia Edgars Rinkevics nhấn mạnh: “nếu chúng ta được cho là phải chịu một số trách nhiệm, châu Âu cũng cần phải ngồi vào bàn đàm phán. Tất nhiên, khi đó bạn có thể có một câu hỏi hay về việc ai đại diện cho châu Âu? Chúng ta có người đứng đầu chính sách đối ngoại của châu Âu. Chúng ta có các quốc gia lớn. Chúng ta sẽ thực hiện điều này”.
Không chỉ bị Phó Tổng thống Mỹ J.D. Vance chỉ trích, châu Âu còn bị “giội gáo nước lạnh” khi đặc phái viên của Mỹ về vấn đề Ukraina, ông Keith Kellogg, tuyên bố rằng lục địa già sẽ không được tham gia tiến trình đàm phán hòa bình với Nga.
Trước những động thái này từ phía Mỹ, các nước châu Âu quyết định tổ chức hội nghị thượng đỉnh khẩn cấp tại Paris ngay trong ngày 17-2. Hội nghị quy tụ lãnh đạo những nước lớn tại châu Âu, bao gồm Anh, Đức, Ba Lan, Italia...
Đan Mạch cũng tham gia với vai trò đại diện các nước Baltic và các nước trên bán đảo Scandinavia. Những nhà lãnh đạo hàng đầu EU và Tổng Thư ký NATO Mark Rutte cũng được mời tham dự.
Trước đó, Đức, Anh và Hà Lan - các thành viên NATO - tuyên bố tiếp tục tăng cường viện trợ quân sự cho Kiev dưới nhiều hình thức. |
Dù Ngoại trưởng Pháp cho rằng, đây là phiên làm việc bình thường và không nên “bi kịch hóa quá mức”, nhưng rõ ràng, động thái này cũng đồng nghĩa với việc các quốc gia châu Âu muốn giành lại quyền chủ động để không bị loại khỏi các cuộc đàm phán nhằm chấm dứt xung đột Nga - Ukraina. Tất nhiên, nếu mối quan hệ giữa Mỹ và đồng minh châu Âu không được giải quyết thỏa đáng, tiến trình này sẽ khó có thể diễn ra suôn sẻ.
V. HAI VẤN ĐỀ NỔI CỘM
Cùng với những khúc mắc giữa các nước lớn, việc giải quyết cuộc xung đột Nga - Ukraina còn phụ thuộc rất lớn vào kết quả xử lý những khúc mắc lớn giữa hai bên, đặc biệt là việc bảo đảm an ninh cho Ukraina và vấn đề “trao đổi lãnh thổ”.
Mối quan hệ giữa NATO và Ukraina
Việc NATO mở rộng về phía Đông và mong muốn gia nhập tổ chức này của Ukraina được xem là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khơi mào cho cuộc xung đột. Trong suốt 3 năm của cuộc chiến, vấn đề này đã được Ukraina nhiều lần đề cập, với mong muốn nhận được sự bảo vệ từ NATO và đây cũng là lý do khiến xung đột giữa Nga và Ukraina không ngừng leo thang.
Tuy nhiên, khác với lập trường trước đây, từ cuối năm 2024, nhà lãnh đạo Ukraina Zelensky đã có sự “xuống thang” từ mong muốn “toàn bộ lãnh thổ” Ukraina gia nhập vào NATO, thành chỉ cần “từng phần lãnh thổ” (trả lời phỏng vấn Hãng tin Sky News, ngày 29-11). Mặc dù vậy, đây vẫn là vấn đề không dễ trở thành hiện thực, khi Nga vẫn coi việc duy trì sự trung lập của Ukraina là điều kiện tiên quyết để đàm phán hòa bình.
Trong khi đó, phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng NATO ở Brussels ngày 12-2, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Hegseth cho biết, chính quyền Tổng thống D. Trump không coi việc trao tư cách thành viên NATO cho Kiev là một phần của giải pháp cho cuộc xung đột hiện nay.
Tổng Thư ký NATO Mark Rutte cũng lưu ý rằng, các nhà lãnh đạo Liên minh chưa bao giờ hứa với Ukraina rằng nước này sẽ trở thành thành viên NATO nếu đạt được thỏa thuận hòa bình với Nga.
“Chúng ta phải bảo đảm rằng Vladimir Putin sẽ không bao giờ cố gắng tấn công Ukraina nữa, điều đó rất quan trọng..., nhưng chưa bao giờ có lời hứa nào với Ukraina rằng họ sẽ trở thành một phần của NATO như một phần của thỏa thuận hòa bình”, ông M. Rutte nói.
Như vậy, nếu Mỹ và các thành viên khác của NATO có thể bảo đảm việc Ukraina không trở thành thành viên của tổ chức này, cơ hội phía Nga đồng ý giải quyết cuộc xung đột này có thể cao hơn. Thực tế là ngay trong cuộc điện thoại với Tổng thống Mỹ, ông V. Putin đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải “loại bỏ nguyên nhân gốc rễ” của cuộc chiến - việc NATO vi phạm các cam kết không tiến về phía Đông ở các khu vực gần biên giới Nga, trong đó có Ukraina.
Trong những ngày gần đây, Nga cũng không ít lần nhắc lại rằng họ sẽ chỉ chấp nhận một nền hòa bình khi Ukraina từ bỏ tham vọng gia nhập NATO. Tuy nhiên, đây lại là điều mà phía Ukraina không mong muốn.
Trao đổi lãnh thổ - vấn đề không dễ thỏa hiệp
Theo dữ liệu của ISW, tính đến ngày 12-2-2025, sau gần 3 năm xung đột, các lực lượng Nga đã giành được hơn 40.000km2, tương đương khoảng 12% diện tích lãnh thổ của Ukraina. Nếu tính cả các phần lãnh thổ bị kiểm soát trước ngày 24-2-2022, đến thời điểm này, Nga giành được gần 70.000km2, bằng khoảng 20% diện tích Ukraina.
Trong khi đó, với các cuộc tấn công trong tháng 8-2024 vào lãnh thổ Nga, Ukraina đã kiểm soát được khoảng 450km2 ở Kursk. Trả lời phỏng vấn của tờ The Guardian (Anh) hôm 11-2, Tổng thống Ukraina V. Zelensky cho biết ông có kế hoạch đề nghị Nga thực hiện một cuộc trao đổi lãnh thổ trực tiếp nhằm chấm dứt chiến tranh.
Theo đó, Ukraina sẽ trao lại các vùng lãnh thổ nước này kiểm soát ở tỉnh Kursk của Nga để đổi lấy những khu vực đang nằm dưới sự kiểm soát của Moscow. “Chúng tôi sẽ trao đổi lãnh thổ với nhau”, ông Zelensky nói, nhưng không nêu rõ những khu vực mà Ukraina sẽ yêu cầu Nga trả lại.
Ý tưởng trao đổi lãnh thổ xuất hiện sau khi Tổng thống Mỹ nói trong cuộc phỏng vấn với Fox News rằng “một ngày nào đó, Ukraina có thể trở thành Nga”. Tại Hội nghị của NATO tại Brussels mới đây, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Hegseth cũng phát biểu rằng, việc Ukraina đòi lại toàn bộ lãnh thổ mà Nga đã sáp nhập kể từ lần đầu tiên tấn công miền Đông nước này vào năm 2014 là không thực tế và “sẽ chỉ kéo dài cuộc chiến và gây thêm đau khổ”. Ngay sau đó, đặc phái viên của ông D. Trump về Ukraina Keith Kellogg tiếp tục phát triển “hiệu ứng sốc” từ quan điểm của Bộ trưởng Hegseth khi tuyên bố về việc Ukraina có thể phải chính thức nhân nhượng lãnh thổ nhưng “không cần sự công nhận của Mỹ”. |
Duy Anh - Thành Nam - Khôi Nguyên - Tiến Thắng - Công Minh (thực hiện)
Các bài cũ hơn



