01/03/2025 | 06:34 GMT+7 | Điện thoại: 034 39429756 | Email: hososukien@gmail.com

Đột phá phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo


Tại báo cáo mới nhất về Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cho biết, tổng giá trị thị trường của 17 công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), xe điện, hydro xanh,... trên toàn cầu đã đạt 1.500 tỷ USD và đến năm 2030 có thể lên tới 9.500 tỷ USD. Việc phát triển các công nghệ tiên tiến như AI kết hợp với robot, in 3D,... cũng sẽ mở ra cơ hội chuyển đổi hệ thống sản xuất, giúp nâng cao năng suất, phát triển kinh tế.

Không phải tới thời điểm này, mà từ nhiều năm trước, cộng đồng quốc tế cũng đã thống nhất cho rằng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo (STI) không chỉ là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, thúc đẩy việc làm tử tế, sản xuất có trách nhiệm mà còn đóng vai trò chủ chốt trong việc nâng cao phúc lợi, cải thiện sinh kế cho hàng tỷ người trên thế giới; đồng thời giúp giải quyết hiệu quả các thách thức về môi trường... - những trụ cột quan trọng của phát triển bền vững. Chính vì vậy, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, việc phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo được xem là cơ hội mà các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển cần nắm bắt để “không bị bỏ lại phía sau”!

Để góp phần hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng khẳng định, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chính là “chìa khóa vàng”, là yếu tố sống còn để vượt qua bẫy thu nhập trung bình và nguy cơ tụt hậu, đồng thời hiện thực hóa khát vọng hùng cường và thịnh vượng của dân tộc ta.

I. MỘT SỐ NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO

Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo

Khoa học

Theo cách hiểu đơn giản nhất, khoa học (science) bao gồm những kiến thức về các quá trình tự nhiên phổ biến của nhân loại, đã tồn tại kể từ buổi bình minh của loài người.

Còn theo định nghĩa của Liên hợp quốc, khoa học là những nghiên cứu có hệ thống về thế giới vật chất hoặc vật lý (khoa học tự nhiên) và xã hội (khoa học xã hội). Việc quan sát, thử nghiệm và diễn giải - các hoạt động chính của nghiên cứu khoa học - có thể dẫn đến việc khám phá về những kiến thức mới. 

Kiến thức khoa học có thể được tiếp thu và lan tỏa thông qua giáo dục và đào tạo, giúp tăng cường sự tham gia của mọi người vào khoa học; đồng thời mở rộng kiến thức, sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên, cũng như xã hội...

Công nghệ

Tương tự như khoa học, trên thế giới cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghệ (technology). Chẳng hạn như: công nghệ là việc ứng dụng kiến thức khoa học để phát triển các kỹ thuật sản xuất ra sản phẩm và cung cấp dịch vụ; thường gắn liền với các ngành sản xuất tạo nên máy móc và thiết bị được phát triển từ công nghệ. 

Công nghệ cũng có thể được định nghĩa như một quy trình khoa học hoặc công nghiệp, phát minh hay rộng hơn là nhánh kiến thức liên quan đến việc tạo ra và sử dụng các phương tiện kỹ thuật và ứng dụng kiến thức cho các mục đích phục vụ cuộc sống.

Đổi mới sáng tạo

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) và Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat) đổi mới, đổi mới sáng tạo (innovation) là việc triển khai một sản phẩm (hàng hóa hoặc dịch vụ) hoặc quy trình mới hay được cải tiến đáng kể, một phương pháp tiếp thị mới hay một phương pháp tổ chức mới trong các hoạt động kinh doanh, tổ chức nơi làm việc hoặc quan hệ đối ngoại.

OECD cũng chia đổi mới thành 4 lĩnh vực, bao gồm:

Đổi mới sản phẩm: là việc giới thiệu một hàng hóa hoặc dịch vụ mới hoặc được cải tiến đáng kể về các đặc điểm hoặc mục đích sử dụng. Điều này cũng bao gồm việc phát minh, cải tiến về thông số kỹ thuật, thành phần vật liệu, phần mềm tích hợp, tính thân thiện với người dùng hoặc các đặc điểm chức năng khác của sản phẩm, dịch vụ...

Đổi mới quy trình: là việc triển khai một phương pháp, quy trình sản xuất hoặc phân phối mới, hoặc được cải tiến đáng kể.

Đổi mới tiếp thị: là việc triển khai một phương pháp tiếp thị mới, liên quan đến những thay đổi đáng kể về thiết kế hoặc bao bì sản phẩm, vị trí sản phẩm, quảng cáo sản phẩm hoặc giá cả.

Đổi mới tổ chức: là việc triển khai một phương pháp tổ chức mới trong hoạt động kinh doanh, tổ chức nơi làm việc hoặc quan hệ đối ngoại.

Luật Khoa học và Công nghệ của Việt Nam có một số định nghĩa liên quan đến khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cụ thể:

- Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.

- Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.

Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.

Phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới.

- Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa.

Mối quan hệ chặt chẽ

Theo quan điểm truyền thống, đổi mới sáng tạo được nhìn nhận qua lăng kính hẹp của khoa học, nghiên cứu và phát triển (R&D) và phát minh sáng chế thuần túy. Ở phạm vi rộng hơn, đổi mới sáng tạo còn bao gồm việc các tổ chức, doanh nghiệp ứng dụng những tri thức/công nghệ tiên tiến sẵn có và tri thức/công nghệ mới vào các hoạt động, quy trình nhằm thúc đẩy năng suất và tăng trưởng.

Như vậy, tiếp cận ở bất cứ góc độ nào, đổi mới sáng tạo cũng được xem là kết quả trực tiếp của các hoạt động khoa học - công nghệ và thường được thúc đẩy bởi những tiến bộ của khoa học - công nghệ. 

Nói một cách đơn giản, không thể có đổi mới sáng tạo nếu không có (một) công nghệ hiện có (hoặc quy trình/sản phẩm hiện thân của công nghệ đó). Trong khi đó, không thể có tiến bộ công nghệ nếu không có những khám phá và nghiên cứu khoa học, từ đó phát minh và phát triển công nghệ. 

Khi xem xét tới mục đích phát triển, công nghệ có thể được xác định là động lực cốt lõi vì đây là lĩnh vực tạo sự liên kết chặt chẽ với cả khoa học và đổi mới, đổi mới sáng tạo. Ở chiều ngược lại, đổi mới cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy tiến bộ và tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả khoa học và công nghệ...

II. VAI TRÒ QUAN TRỌNG

Mặc dù khó có thể đo lường được những giá trị thực sự của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhưng các quốc gia, tổ chức quốc tế, cũng như các chuyên gia đều đánh giá cao vai trò quan trọng của các lĩnh vực này đối với tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất và phát triển xã hội...

Vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế

Cùng với các nguồn lực về tài nguyên, vốn và lao động..., khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo được coi là nguồn lực quan trọng, có tác động ngày càng lớn đối với phát triển kinh tế.

Thực tiễn cho thấy, khoa học - công nghệ, hay cụ thể hơn là những phát minh, sáng chế (cách gọi khác của đổi mới sáng tạo) đã trở thành tiền đề quan trọng cho sự phát triển của xã hội loài người trong hàng chục thế kỷ, đặc biệt là đã tạo nên các cuộc cách mạng công nghiệp với những bước đột phá làm thay đổi cơ bản thế giới mà con người đang sống. 

Trong xã hội hiện đại, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo được xem là nền tảng, điều kiện để chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Sự ra đời của hàng loạt công nghệ mới, vật liệu mới, hiện đại như công nghệ nano, công nghệ sinh học, điện tử viễn thông, robot và quy trình sản xuất - phân phối - tiêu dùng mới,... đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu vào của hoạt động sản xuất, cũng như năng suất lao động, từ đó làm tăng thu nhập, gia tăng chi tiêu cho tiêu dùng và tăng đầu tư cho cả nền kinh tế.

Bên cạnh đó, sự phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới không chỉ giúp thay đổi cơ cấu sản xuất, phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn, mà còn làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, lĩnh vực mới có đóng góp lớn cho phát triển kinh tế. 

Báo cáo Công nghệ và Đổi mới sáng tạo năm 2023 của UNCTAD cho biết, mặc dù chúng ta mới ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghệ dựa trên công nghệ xanh và công nghiệp 4.0, nhưng tổng giá trị thị trường của 17 công nghệ xanh và tiên tiến như AI, IoT, hydro xanh, xe điện,... đã lên tới 1.500 tỷ USD và có thể tăng lên hơn 9.500 tỷ USD vào năm 2030 - gấp khoảng 3 lần quy mô của nền kinh tế Ấn Độ hiện nay. Trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu công nghệ xanh từ các nước phát triển và đang phát triển đã tăng vọt từ khoảng 117 tỷ USD vào năm 2018 lên hơn 231 tỷ USD vào năm 2021.

Một báo cáo của Công ty nghiên cứu thị trường Statista (Đức) cho biết, vào năm 2024, quy mô thị trường công nghệ toàn cầu đạt khoảng 6.400 tỷ USD, trong đó doanh thu của dịch vụ truyền thông - phân khúc lớn nhất của thị trường công nghệ toàn cầu - là 1.500 tỷ USD, còn thị trường dịch vụ công nghệ thông tin cũng tạo ra khoảng 1.420 tỷ USD.

Trong khi đó, Viện Nghiên cứu toàn cầu (MGI) ước tính rằng, chi tiêu công nghệ toàn cầu (bao gồm người tiêu dùng, các tổ chức giao dịch công khai, các công ty tư nhân, các tổ chức phi lợi nhuận và chi tiêu của chính phủ) sẽ tăng từ 8.510 tỷ USD vào năm 2022 lên 11.470 tỷ USD vào năm 2026.

Ở phạm vi quốc gia, những đóng góp của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo vào nền kinh tế cũng được đánh giá rất cao. Chẳng hạn như tại Vương quốc Anh, báo cáo của Văn phòng Thống kê quốc gia (ONS) được công bố tháng 9-2024 cho biết, vào năm 2023, giá trị gia tăng gộp (GVA) của ngành công nghệ thông tin và các hoạt động dịch vụ thông tin khác là 71 tỷ bảng; sản xuất máy tính, một số máy móc và linh kiện điện tử là 38 tỷ bảng; viễn thông là 34,5 tỷ bảng; nghiên cứu và phát triển khoa học là 20,6 tỷ bảng; hàng không, vũ trụ và máy móc liên quan là 10,8 tỷ bảng...

Ngoài ra, Oxford Economics - một công ty tư vấn kinh tế - ước tính rằng, vào năm 2023, ngành khoa học đời sống đã đóng góp hơn 13 tỷ bảng cho nền kinh tế Anh. Một báo cáo của Chính phủ năm 2023 ước tính, giá trị ngành AI của Anh vào khoảng 3,7 tỷ bảng...

Dù cho rằng việc đo lường tác động kinh tế thực sự của các lĩnh vực hoạt động này là rất khó khăn, nhưng Hiệp hội Hoàng gia Vương quốc Anh (ISC) khẳng định, khoa học - công nghệ và đổi mới “đã biến đổi thế giới” thông qua những tác động trực tiếp, như thúc đẩy năng suất, nâng cao thu nhập..., cũng như những lợi ích gián tiếp cho nền kinh tế, như đóng góp vào an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng...

Theo ISC, nếu không có đủ năng lực nghiên cứu cơ bản, một nền kinh tế không thể tạo ra kiến thức và quy trình tiên tiến để mang lại các lợi ích kinh tế trong tương lai. Thực tế cho thấy, sự phát triển của máy tính và Internet - trung tâm của nền kinh tế toàn cầu hiện nay - được xây dựng dựa trên nhiều thập niên nghiên cứu cơ bản về điện từ học và toán học lý thuyết. Việc sản xuất nhanh chóng vaccine để chống lại COVID-19 được hỗ trợ bởi nhiều năm nghiên cứu tích lũy về mRNA và virus corona. Nguồn gốc của xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase (PCR) - một can thiệp quan trọng khác trong đại dịch - bắt nguồn từ việc phát hiện vi sinh vật thermus aquaticus, vào năm 1960...

Nâng cao năng lực cạnh tranh từ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo

Theo nghiên cứu của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), các quốc gia dựa trên chiến lược tăng trưởng kinh tế theo định hướng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo có tăng trưởng kinh tế bền vững hơn các quốc gia khác. 

Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thế giới toàn cầu hóa và cạnh tranh cao, chiến lược cạnh tranh dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới là yếu tố quan trọng nhất, bởi thông qua đó các quốc gia không chỉ đạt được tăng trưởng bền vững dài hạn mà còn tăng cường khả năng cạnh tranh toàn cầu.

Theo Liên hợp quốc, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ giúp nâng cao năng suất và thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng động của nền kinh tế, tăng tốc độ tăng trưởng,... mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, như gia tăng số lượng việc làm tử tế, giảm mức tiêu thụ năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch, phát triển các loại thuốc thiết yếu và cải thiện sức khỏe/ chăm sóc y tế, đạt được an ninh lương thực thông qua các phương pháp nông nghiệp bền vững và nâng cao năng suất... 

Việc nâng cao năng lực khoa học - công nghệ và đổi mới của một quốc gia, cũng như ứng dụng hiệu quả các thành tựu này vào hoạt động kinh tế cũng là những yếu tố thiết yếu để mở rộng năng lực của người dân và đạt được sự phát triển bền vững...

Cũng theo phân tích của WEF, bản chất của cạnh tranh đã thay đổi khi quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng và sâu sắc hơn. Thay vì cạnh tranh dựa trên các yếu tố nguồn lực của mình (chủ yếu là lao động không có kỹ năng và tài nguyên thiên nhiên...), các quốc gia cần chuyển sang giai đoạn phát triển theo hướng hiệu quả và phải bắt đầu phát triển các quy trình sản xuất hiệu quả, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm; đồng thời bảo đảm khả năng cạnh tranh với các sản phẩm mới và độc đáo.

Ở giai đoạn này, các công ty cũng phải tăng mức độ cạnh tranh bằng cách sản xuất hàng hóa mới và khác biệt bằng các quy trình sản xuất tinh vi nhất, thông qua đổi mới.

Trên thực tế, khoa học - công nghệ và đổi mới được xem là những điều kiện quan trọng để giảm chi phí, tăng năng suất và đa dạng hóa sản phẩm trong điều kiện thị trường toàn cầu. Trong đó, đổi mới làm tăng năng suất là điều kiện chính tạo nên khả năng cạnh tranh của các quốc gia. 

Vì vậy, các quốc gia có chính sách và chiến lược kinh tế dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ có ưu thế lớn không chỉ về khả năng cạnh tranh toàn cầu mà còn về tăng trưởng và phát triển kinh tế, bảo đảm cho sự giàu có và nâng cao phúc lợi của quốc gia.

III. CÁC QUỐC GIA ĐÃ VÀ ĐANG LÀM GÌ?

Để nâng cao khả năng ứng phó với những thách thức toàn cầu, cũng như năng lực cạnh tranh, nhiều quốc gia trên thế giới đã sớm có những chiến lược và hành động cụ thể trong phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo...

Mỹ

Mỹ đạt được vị trí dẫn đầu thế giới về một số công nghệ và ngành công nghiệp của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai - máy móc điện, ô tô và thép - thông qua việc phát triển các kỹ thuật sản xuất hàng loạt quy mô lớn. Chiến tranh thế giới thứ hai thúc đẩy một số thay đổi trong khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo của Mỹ mà tác động của chúng vẫn còn cho đến hiện nay. 

Đó là vai trò lớn của liên bang trong việc hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D), tập trung vào nhu cầu quốc phòng và vai trò quan trọng của các công ty khởi nghiệp nhỏ trong việc thương mại hóa các công nghệ mới.

Theo thống kê, Mỹ là quốc gia có hoạt động R&D lớn nhất, với 806 tỷ USD chi tiêu cho R&D vào năm 2021, tương đương 3,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tổng số tiền của chính quyền Liên bang tài trợ cho hoạt động này tăng liên tục từ năm 2011 đến năm 2021. 

Hiện nay, riêng đối với nghiên cứu cơ bản, tỷ lệ tài trợ của Chính phủ Liên bang là 40%, còn 36% là từ khu vực doanh nghiệp. Cùng với đó, vào năm 2021, Chính phủ Mỹ cũng là đơn vị hỗ trợ lớn nhất cho hoạt động R&D học thuật (tài trợ 52% tổng số hoạt động R&D do các tổ chức giáo dục đại học thực hiện và hỗ trợ 15% số sinh viên sau đại học chuyên ngành khoa học và kỹ thuật toàn thời gian).

Thống kê cũng cho thấy, trong 20 năm (từ năm 2003 đến 2022), số lượng bài báo về khoa học và kỹ thuật (S&E) của Mỹ được công bố trên các tạp chí mở đã tăng hơn 50 lần, từ 19.000 bài lên 992.000 bài. Đây cũng là quốc gia có tỷ lệ các nghiên cứu S&E được trích dẫn nhiều nhất và dẫn đầu thế giới về dịch vụ xuất bản ấn phẩm khoa học, cấp bằng sáng chế (KTI).

Bên cạnh đó, các trường đại học của Mỹ thu hút gần 1 triệu sinh viên từ khắp nơi trên thế giới tập trung trong các ngành học chính là kỹ thuật và kinh doanh, tiếp sau là toán học và khoa học máy tính. Riêng số lượng sinh viên sau đại học ngành S&E quốc tế đăng ký theo học tại các cơ sở giáo dục của Mỹ đã tăng lên gần 310.000 vào năm 2022. 

Một phần trong số này được bổ sung cho lực lượng lao động khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) của Mỹ bao gồm 36,8 triệu người, chiếm 24% tổng lực lượng lao động của Mỹ.

Việc đầu tư kết hợp với đổi mới về giáo dục và văn hóa đã giúp Mỹ có được tiềm năng trong phát triển và áp dụng khoa học - công nghệ cho nhu cầu tăng trưởng của quốc gia, mở rộng sức ảnh hưởng trên toàn cầu.

Đức

Tại Đức, ở cấp liên bang, trách nhiệm nghiên cứu và đổi mới được giao cho 2 bộ: Bộ Giáo dục và Nghiên cứu xử lý chính sách giáo dục và nghiên cứu (bao gồm cả Chương trình Khung châu Âu); Bộ Kinh tế và Hành động Khí hậu xử lý chính sách đổi mới và công nghệ (bao gồm chính sách nghiên cứu về hàng không, vũ trụ, vận tải và năng lượng).

Quỹ nghiên cứu Đức DFG là tổ chức tài trợ nghiên cứu trung tâm tại Đức, cung cấp hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu trong giáo dục đại học và các tổ chức nghiên cứu công. Mỗi tổ chức đóng vai trò khác nhau và hợp tác chặt chẽ với các tổ chức giáo dục đại học hay ngành công nghiệp.

Hiện nay, 240 cơ sở giáo dục đại học công lập của Đức đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế tri thức của nước này. Trong đó, các trường đại học khoa học ứng dụng (UAS) với trọng tâm là học tập ứng dụng có danh tiếng toàn cầu trong việc cung cấp các kỹ sư lành nghề và nhà khoa học cho lĩnh vực sản xuất.

Để thúc đẩy khoa học - công nghệ và đổi mới; đồng thời vượt qua các thách thức xã hội cũng như toàn cầu, đầu năm 2023, Đức đã thông qua Chiến lược Tương lai cho nghiên cứu và đổi mới. Chiến lược đề ra 6 nhiệm vụ nhằm giải quyết các vấn đề, như quản lý có ý thức về tài nguyên, bảo vệ khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học, sức khỏe, chủ quyền kỹ thuật số và công nghệ, nghiên cứu không gian và biển cũng như khả năng phục hồi xã hội. Mỗi nhiệm vụ bao gồm nhiều mục tiêu riêng.

Cùng với đó, chi tiêu cho hoạt động R&D của Đức liên tục tăng trưởng và tăng gấp đôi trong 20 năm qua, với mục tiêu đạt 3,5% GDP vào năm 2025. Năm 2021, chi tiêu cho hoạt động R&D đạt 3,14% (3,16% vào năm 2020) GDP, vượt mục tiêu chi tiêu 3% của Liên minh châu Âu (EU). Ngoài việc thúc đẩy sự xuất sắc trong hoạt động R&D trong nước, Đức còn đóng vai trò hàng đầu trong các chương trình R&D quốc tế, chẳng hạn như Horizon 2020.

Trung Quốc là quốc gia thành công vươn mình trên nền tảng ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Từ cuối năm 2012, Trung Quốc đã có sự thay đổi về trọng tâm phát triển đất nước. Cấu trúc lại nền kinh tế, chuyển trọng tâm từ tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và đầu tư công nghiệp nặng sang phát triển dựa trên tiêu dùng nội địa, đổi mới công nghệ và dịch vụ. 

Năm 2015, Trung Quốc công bố Chiến lược “Made in China 2025” (MIC25) với mục tiêu: Giai đoạn 1 (2015 - 2025): Đưa Trung Quốc trở thành cường quốc chế tạo công nghệ; giai đoạn 2 (2025 - 2035): Đưa Trung Quốc gia nhập nhóm các cường quốc chế tạo công nghệ toàn cầu hạng trung; giai đoạn 3 (2035 - 2045): Đưa Trung Quốc trở thành cường quốc hàng đầu thế giới về công nghệ.

Năm 2016, Trung Quốc ban hành “Chiến lược quốc gia về phát triển dựa trên đổi mới”. Từ khi triển khai Chiến lược quốc gia về phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo, nền kinh tế của Trung Quốc, đặc biệt là kinh tế số đã có nhiều bước phát triển vượt bậc. Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu nhảy vọt trong phát triển khoa học, công nghệ. Nếu giai đoạn 2003 - 2007, Trung Quốc chỉ dẫn đầu 3/64 công nghệ quan trọng tầm chiến lược, thì giai đoạn 2019 - 2023, Trung Quốc dẫn đầu trong 57/64 công nghệ quan trọng tầm chiến lược. 

Trung Quốc xây dựng trạm vũ trụ của riêng mình, phóng các tàu thăm dò lên mặt trăng, sao hỏa, phát triển máy bay thương mại C919, tàu lặn dưới biển sâu và siêu máy tính. Mạng lưới đường sắt tốc độ cao đã mở rộng gấp bảy lần, xây dựng gần 70 sân bay mới và khoảng một triệu ki-lô-mét đường cao tốc. Chỉ số GII (bộ công cụ đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia) của Trung Quốc liên tục tăng, năm 2012, Trung Quốc đứng thứ 34, đến năm 2024, chỉ số GII của Trung Quốc đứng thứ 11.

Phạm Đại Dương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương

Nhật Bản

Nhật Bản là một trong những cường quốc phát triển khoa học - công nghệ hàng đầu. Các yếu tố chính làm nền tảng cho sự trỗi dậy về công nghiệp và công nghệ của Nhật Bản bao gồm: 

(i) Các chính sách của chính quyền trung ương khuyến khích việc áp dụng và phổ biến các công nghệ nước ngoài thông qua việc giảm rủi ro của khu vực tư nhân, kích thích nhu cầu và cung cấp cơ sở hạ tầng giáo dục và các cơ sở hạ tầng khác; 

(ii) Một cơ sở lan tỏa tinh thần kinh doanh và một khu vực tư nhân cạnh tranh mạnh mẽ, tiếp thu các công nghệ mới và có khả năng cải thiện chúng; 

(iii) Một bầu không khí chính trị ổn định và cởi mở, tạo thuận lợi cho việc hiện thực hóa các mục tiêu chung của quốc gia, đồng thời bảo đảm sự linh hoạt trong thực hiện các chính sách.

Năm 1995, Nhật Bản thông qua Luật Cơ bản về khoa học và công nghệ, trong đó xác định việc thúc đẩy R&D, bảo đảm và đào tạo các nhà nghiên cứu và kỹ thuật viên, cải thiện các cơ sở nghiên cứu, thúc đẩy nghiên cứu chuyên sâu về thông tin.

Kế hoạch cơ bản lần thứ 6 về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo của Nhật Bản bao gồm 3 trụ cột cơ bản:

- Tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực. Theo đó, quỹ tài trợ của trường đại học trị giá 10.000 tỷ yên, hỗ trợ dài hạn sẽ được cung cấp để phát triển các trường đại học nghiên cứu đẳng cấp thế giới, tạo ra những kết quả vượt trội và bồi dưỡng những cá nhân tài năng có thể lãnh đạo xã hội.

- Thúc đẩy chiến lược công nghệ tiên tiến và mới nổi, các trung tâm đổi mới cho sự hợp tác giữa ngành công nghiệp, học viện và chính phủ ở mọi cấp độ từ nghiên cứu cơ bản đến triển khai xã hội sẽ được tăng cường và việc sử dụng các công nghệ tiên tiến như vậy sẽ được thúc đẩy.

- Tạo ra một hệ sinh thái đổi mới bằng cách củng cố các sáng kiến thúc đẩy thị trường vốn đầu tư mạo hiểm; mở rộng đầu tư R&D công - tư thông qua các biện pháp như ưu đãi thuế R&D và Chương trình Nghiên cứu đổi mới doanh nghiệp nhỏ (SBIR)...

Trên cơ sở luật này, năm 1996, Nhật Bản đưa ra Kế hoạch cơ bản về khoa học và công nghệ. Kế hoạch đưa ra một số mục tiêu cụ thể về ngân sách và các giải pháp nhằm cải thiện môi trường cho nghiên cứu cơ bản, trong đó có việc tăng số lượng nhà nghiên cứu sau tiến sĩ từ khoảng 6.000 người vào năm 1996 lên 10.000 vào năm 2000; tăng số lượng nhân viên hỗ trợ nghiên cứu cho mỗi nhà nghiên cứu tại các viện nghiên cứu quốc gia lên tỷ lệ 1:1 và tỷ lệ các trường đại học là 1:2; tăng cường sử dụng các cơ chế tài trợ cạnh tranh. Mục tiêu nổi tiếng nhất của Kế hoạch cơ bản là tăng chi tiêu cho R&D của chính phủ trong các năm tài chính 1996 - 2000 lên 50%, đạt 17.000 tỷ yên so với 5 năm trước đó...

Năm 2020, Nhật Bản thông qua Luật Cơ bản về khoa học và công nghệ mới, sau đó ban hành Kế hoạch cơ bản lần thứ 6 về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, với mục tiêu đầu tư 120.000 tỷ yên (gồm cả đầu tư công và tư nhân) vào hoạt động R&D 

IV. PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM

Tại Việt Nam, khoa học - công nghệ cũng được xem là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Một số quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển khoa học - công nghệ

Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của đất nước, Đảng ta sớm đề ra những quan điểm, chủ trương trong phát triển các lĩnh vực này. Đặc biệt, tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng khẳng định: “tăng cường và kết hợp chặt chẽ hoạt động của các ngành khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Tăng mức đầu tư, đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức lại lực lượng khoa học kỹ thuật, làm cho khoa học, kỹ thuật gắn chặt với sản xuất và đời sống, đem lại hiệu quả thiết thực, trở thành một bộ phận của lực lượng sản xuất xã hội...”.

Đến Ðại hội VII của Ðảng (năm 1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ rõ: “khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế...”. Nghị quyết Trung ương 7 khóa VII (năm 1994) cũng đưa ra quan điểm: “khoa học công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Cùng với việc tiếp tục khẳng định quan điểm này tại Đại hội VIII (năm 1996), Hội nghị Trung ương 2 Khóa VIII (năm 1996) đã thông qua Nghị quyết chuyên đề về định hướng chiến lược phát triển khoa học - công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. 

Một trong những định hướng quan trọng được nêu rõ tại Nghị quyết này là “đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng - an ninh, nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của đất nước. Coi trọng nghiên cứu cơ bản, làm chủ và cải tiến các công nghệ nhập từ bên ngoài, tiến tới sáng tạo ngày càng nhiều công nghệ mới ở những khâu quyết định đối với sự phát triển của đất nước trong thế kỷ XXI”.

Trên cơ sở nhận định, thế kỷ XXI, khoa học - công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật, Đại hội IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: “phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Để từng bước phát triển kinh tế tri thức và nâng cao năng suất lao động, Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục nhấn mạnh: “kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức”.

Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng nêu rõ: “phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức”. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định: “phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.

Tại Đại hội XII (năm 2016), Đảng xác định nhiều vấn đề mới trong phát triển khoa học - công nghệ; đồng thời nhấn mạnh: “phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức”. Cùng với đó, Đảng cũng xác định cần ưu tiên đầu tư trên tất cả các mặt từ chính sách, ngân sách, cán bộ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển khoa học - công nghệ.

Tại Đại hội XIII của Đảng (năm 2021), trước sự phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng khẳng định: “tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại... Có chiến lược phát triển khoa học công nghệ phù hợp xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”. 

Nghị quyết Đại hội cũng bổ sung nội dung “đổi mới sáng tạo” như một yếu tố đột phá chiến lược; đồng thời nhấn mạnh phát triển bền vững dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và đã đưa ra những chủ trương có tính đột phá nhằm phát triển, phát huy hơn nữa vai trò của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển của đất nước...

Những năm qua, việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành hệ thống pháp luật hoàn chỉnh được chú trọng. Năm 2000, Luật Khoa học và Công nghệ ra đời, mở đầu cho việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý có liên quan như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Công nghệ cao... Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định phát triển khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu!

Những chuyển biến tích cực

Với những chủ trương đúng đắn của Đảng, các hoạt động khoa học - công nghệ của nước ta đã phát triển mạnh mẽ. Trong đó, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế (nếu như giai đoạn 2001 - 2010, TFP chỉ đạt 4,3%, thì đến giai đoạn 2016 - 2020 đã tăng lên 45,2%; riêng giai đoạn 2011 - 2020 đạt 39%, vượt mục tiêu đã đề ra là 35%).

Cùng với đó, tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên 50% năm 2020; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) cũng liên tục được cải thiện. Theo Báo cáo GII năm 2024, Việt Nam xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023, tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu trong nhóm các nước thu nhập trung bình thấp. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam đứng thứ 4 (sau Singapore, Malaysia và Thái Lan). 

Trong 14 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả đổi mới sáng tạo cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra đổi mới sáng tạo.

Số liệu của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy, trong giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị hằng năm của cả nước đạt 51,7%; số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ tăng 1,6 lần so với giai đoạn 2011 - 2015... Đặc biệt, khoa học - công nghệ góp phần nâng cao năng suất lao động của toàn nền kinh tế. 

Theo đó, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 4,3%/năm, tăng lên 5,8% giai đoạn 2016 - 2018. Năm 2022, năng suất lao động theo giá hiện hành ước tính đạt 188,1 triệu đồng/lao động (tương đương 8.083 USD/lao động), tăng hơn 622 USD so với năm 2021.

Có thể thấy, những thành tựu về khoa học - công nghệ đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiều công trình nghiên cứu có đóng góp lớn cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các lĩnh vực nông nghiệp, y học, dược học, năng lượng, dầu khí, cơ khí, chế tạo, quân sự, an ninh...

Hiện nay, các tổ chức khoa học - công nghệ và đội ngũ cán bộ khoa học đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Cả nước có hơn 420 tổ chức nghiên cứu và phát triển với quy mô khác nhau, gần 900 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học - công nghệ. Đây là lực lượng đi đầu trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Công tác quản lý nhà nước, cơ chế, chính sách về phát triển, quản lý khoa học và công nghệ được tiếp tục đổi mới. Đã hình thành hành lang pháp lý tạo thuận lợi cho việc phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo bắt đầu phát triển. 

Ngoài Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia được thành lập và đi vào hoạt động bước đầu phát huy hiệu quả, Việt Nam còn có hơn 200 quỹ đầu tư, 84 vườn ươm, 20 trung tâm khởi nghiệp sáng tạo; hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam đứng thứ 56/100 quốc gia; Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh lọt vào top 200 thành phố khởi nghiệp sáng tạo toàn cầu.

Bên cạnh đó, hệ thống hạ tầng số quốc gia cũng được chú trọng xây dựng theo hướng đồng bộ, hiện đại; các cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu chuyên ngành từng bước được triển khai. Công nghiệp công nghệ số phát triển nhanh, đóng góp ngày càng lớn cho GDP. Tính đến hết năm 2024, tỷ trọng kinh tế số trong GDP ước đạt 18,3%; công nghiệp công nghệ số đạt doanh thu 152 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu phần cứng, điện tử ước đạt 132 tỷ USD...

V. TẠO BƯỚC ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO

Với mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, ngày 22-12-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, về Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới

Trên cơ sở phân tích những yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.

Nghị quyết cũng yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng.

Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tỷ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương các nước phát triển; tối thiểu có 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến. Thu hút thêm ít nhất 5 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam.

Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia...

Tại Nghị quyết này, Bộ Chính trị cũng xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, đến năm 2030, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức trên trung bình của thế giới; một số lĩnh vực khoa học, công nghệ đạt trình độ quốc tế. 

Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển AI, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến. 

Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%; tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu đạt tối thiểu 50%. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7...

Bảy nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Để hiện thực hóa các quan điểm, mục tiêu trên, Nghị quyết cũng nêu rõ 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm:

Một là, nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Hai là, khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; xóa bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Ba là, tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Bốn là, phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Năm là, đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh.

Sáu là, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp.

Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số...

Thành Nam - Khôi Nguyên - Tiến Thắng - Công Minh - Duy Minh (thực hiện)

Chuyên mục: Hồ sơ

Trang: 1 2 3 4 5 ... 24 Sau